lundi 27 octobre 2014
Hoa
Kỳ vừa gỡ đi một phần luật « cấm bán vũ khí sát thuơng » cho VN. Luật
này do quốc hội Mỹ đặt ra từ cuối thập niên 70, sau khi những vận động để thiết
lập ngoại giao giữa hai bên bị thất bại.
(Sau
1975, VN đặt điều kiện với Mỹ bồi thường chiến tranh thì mới bang giao. Đến năm
1977, khi VN đồng ý bang giao « vô điều kiện » thì đã quá trễ :
Hoa Kỳ đã đi tắt với Bắc Kinh để lập liên minh chống Liên Xô. Từ đó VN ngã vào
vòng ảnh hưởng của Liên Xô, cùng với Liên Xô thực hiện mưu đồ thôn tính vùng
Nam Á : từ Afghanistan qua Iran, Ấn Độ, nhằm khống chế eo biển Malacca.
Cuối thập niên 70, khi Liên Xô mở mặt trận Afghanistan thì Việt Nam mở cuộc
chiến Kampuchia. Các nước trong vùng, kể cả Mỹ và Trung Quốc, lo ngại thuyết
Domino được chứng nghiệm : chính quyền các nước Thái Lan, Mã Lai, Miến
Điện, Nam Dương… cho đến Ấn Độ, Iran… lần lượt sụp đổ, hay liên kết với Liên
Xô. Trước dư luận quốc tế, cuộc chiến Kampuchia là cuộc chiến ủy nhiệm của hai
thế lực XHCN đối nghịch : Liên Xô và Trung quốc (được sự chống lưng của
Mỹ). VN bị xem là một tên « xung kích sừng sỏ » được sự ủy nhiệm của
cộng sản quốc tế do Liên Xô cầm đầu. VN bị Hoa Kỳ cấm vận và bị thế giới cô lập
từ đó, cho đến đầu thập niên 90, khi mà khối cộng sản Đông Âu bị phân rã và
Liên Xô đang trên đường sụp đổ.)
Việc
tháo gỡ lệnh cấm bán vũ khí sát thuơng hôm nay cho VN có phần tương tự với
trường hợp Đài Loan năm 1979. Cả hai bên đều cần vũ khí sát thuơng của Mỹ để tự
vệ trước sự gây hấn của Trung Quốc.
Trường
hợp Đài Loan, sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi tại Liên Hiệp Quốc năm 1971,
Đài Loan bị cô lập toàn diện. Chiếc ghế đại diện quốc gia Trung Hoa tại Hội
đồng Bảo An LHQ dời về Bắc Kinh, Đài Loan trở thành một « tỉnh » của
Trung Quốc. Tiếp theo sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn 1975, số phận chính
quyền Quốc dân đảng ở Đài Loan mong manh như trứng để đầu cối đá. Lục địa có
thể đem quân « giải phóng » đảo quốc này bất kỳ lúc nào mà không có
sự can thiệp của Hoa Kỳ.
Bởi
vì, khi Hoa Kỳ nhìn nhận Bắc Kinh là chính quyền duy nhất đại diện Trung Quốc
và Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, thì mặc nhiên nhìn nhận « vấn đề
Đài Loan » thuộc về « nội bộ » của Trung Quốc. Điều này cũng
tương tự tình trạng VNCH sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết. Hoa kỳ
« Việt Nam hóa chiến tranh », nhìn nhận VN là một quốc gia thống
nhất, độc lập có chủ quyền. Cuộc chiến VN chỉ là một cuộc nội chiến. Chiến
tranh của VN trở thành « chuyện riêng » của VN, cũng như vấn đề Đài
Loan là chuyện riêng của TQ. Hoa Kỳ (và các nước trên thế giới) không còn lý do
để can thiệp vào. Đây là một nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ : một
quốc gia không được quyền can thiệp vào nội bộ một quốc gia khác.
Trước
đe dọa bị « thống nhất » bằng vũ lực, Đài Loan mong muốn được mua
« vũ khí sát thuơng » của Hoa Kỳ để « tự vệ ».
Trường
hợp Việt Nam, sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN
vào tháng 5-2014, VN lâm vào thế « tiến thoái lưỡng nan » : đánh
thì không xong, mà hòa cũng không ổn. VN không có đủ sức mạnh quốc phòng chống
lại TQ để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong khi việc « hòa » là đồng
nghĩa với việc từ bỏ chủ quyền của VN tại các đảo Hoàng Sa đồng thời quyền chủ
quyền trên thềm lục địa và hải phận của mình.
(Phía
TQ chỉ rút giàn khoan, với lý do « tránh bão », nhưng thực ra là để
hạn chế hệ quả một sai lầm chiến lược. Đáng tiếc là VN đã không khai thác được
điều này. Bởi vì, trên quan điểm thuần túy chiến lược, phía Trung Quốc, khi đặt
giàn khoan 981, đã tính toán sai. Trong quan hệ ngoại giao, sự do dự của VN về
việc lựa chọn đồng minh chiến lược - Trung Quốc hay Mỹ - sẽ sớm được quyết
định. Trung Quốc sẽ mất một đồng minh (đúng ra là đàn em) tin cậy đồng thời tạo
ra một quốc gia thù địch quan trọng ở trước cửa ngõ. Trong khi việc tranh chấp
lãnh thổ với Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã đông lạnh từ tháng
giêng năm 1974 cho đến nay, thì được hâm nóng lại. Hoàng Sa và vùng biển chung
quanh, từ lâu đã được TQ xem là chủ quyền thuộc về TQ bất khả tranh nghị. Qua
dịp này, chủ quyền Hoàng Sa và vùng biển chung quanh có thể được quốc tế nhìn
nhận là vùng lãnh thổ có tranh chấp. Điều này dĩ nhiên có lợi cho VN.)
Điều trở ngại cho cả
hai bên, Đài Loan (năm 1979) và Việt Nam hôm nay : Đài Loan (năm 1979) cũng như Hà
Nội là những chế độ độc tài. Trường hợp VN hôm nay còn tệ hại hơn, nơi
đây một trong vài chế độ độc tài cộng sản trên thế giới còn sót lại. Nhân quyền
thường xuyên bị chà đạp. Ý kiến của nhiều chính trị gia HK, khi mà VN chưa cải
thiện về nhân quyền, chưa dân chủ hóa chế độ, thì các quan hệ với Hoa Kỳ sẽ còn
gặp nhiều khó khăn.
Trường
hợp Đài Loan, chính quyền Quốc dân đảng nhượng bộ đòi hỏi của thành phần
« đảng ngoại » (tức người ngoài đảng), đồng ý một lịch trình dân chủ
hóa chế độ. Hoa Kỳ đáp ứng bằng cách cho thông qua luật « Taiwan Relations
Act » ngày 10-4-1979. Dầu vậy luật này cũng là « tác phẩm » của
kiều dân Đài Loan sống tại Hoa Kỳ. « Lobby » của kiều dân Hoa tại Mỹ
rất mạnh. Nhờ vận động hành lang chính trị, thuợng viện HK mới sớm thông qua dự
luật « Taiwan Relations Act », theo đó HK chủ trương việc giải quyết
« vấn đề Đài Loan » bằng phương tiện hòa bình (HK tôn trọng ý nguyện,
tức sự lựa chọn chính trị của dân Đài Loan), đồng thời cho phép chính
quyền Dân Quốc được mua các loại vũ khí của HK để tự vệ.
Quá
trình dân chủ hóa Đài Loan bắt đầu từ thập niên 80, được sự giúp đỡ quan trọng
(làm chất xúc tác) của các học giả thuộc trường đại học Harvard (như Samuel P.
Huntington). Những người này đã tổ chức (trong khuôn viên đại học Harvard)
những cuộc « hội thảo », tiếp xúc giữa những người ngoài đảng (đảng
ngoại, tức không phải là đảng viên Quốc Dân đảng) với các nhân vật lãnh đạo Dân
Quốc. Quá trình dân chủ hóa kết thúc vào những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3.
Nhờ
các vũ khí tối tân mua từ Hoa Kỳ, Đài Loan hiện nay mặc dầu bị cô lập (hầu như)
toàn diện, họ vẫn không sợ viễn ảnh bị lục địa « thống nhất » bằng vũ
lực.
Trường hợp Việt Nam, chính quyền Obama
vừa tháo gỡ một phần lệnh cấm bá vũ khí sát thuơng, đổi lại, VN phóng thích một
vài tù nhân lương tâm. VN vẫn hoàn toàn im lặng về « hồ sơ nhân
quyền » trước dư luận quốc tế, trong khi việc « dân chủ hóa »
chế độ chỉ là điều trong mơ.
Hoa
Kỳ bán vũ khí sát thuơng (hạn chế) cho VN do vậy đến từ một cấp bách về chiến
lược (bao vây TQ) chứ không do một động lực nào khác.
Người
ta không thể trách được Hoa Kỳ. Lực lượng người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ rất
là đông đảo, không kém kiều dân Hoa ngày trước. Nếu kiều dân Hoa ngày xưa một
lòng ủng hộ Đài Loan, thì hôm nay kiều dân Việt phần lớn chống lại chế độ độc
tài toàn trị của Hà Nội. Những người Việt này có lý do chính đáng, vì phần lớn
họ là nạn nhân trực tiếp của chính sách trả thù ác độc, cũng như sự cai trị hà
khắc của nhà cầm quyền Hà Nội.
(Nếu
không có một chính sách hòa giải dân tộc đứng đắn, những hận thù này sẽ còn tồn
tại mãi, sẽ luôn chống lại phía cộng sản cầm quyền. Phía thiệt hại dĩ nhiên là
đất nước và dân tộc VN. Đó là ta chưa nói đến những tác hại của các thành phần
dân tộc thiểu số Khmer Krom và các dân tộc ở Tây nguyên, Tây bắc. Chính quyền
suy yếu, hay đất nước kém phát triển, khuynh hướng ly khai sẽ phát triển. Việc
giữ toàn vẹn lãnh thổ trở thành khó khăn. Mà giải quyết các mâu thuẩn này hiệu
quả không phải do đàn áp, mà cũng phải là một chính sách hòa giải dân tộc đúng
đắn).
Trong
khi các « lực lượng dân chủ » của VN thì tản mác, không có những trí
thức lớn như trường hợp Đài Loan (năm 1979). Từ khi những trí thức lớn và có uy
tín như ông Trần Xuân Bách bị khai trừ năm 1990, thì đảng VN ngày càng rập
khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc. (Ông Trần Xuân Bách là nạn nhân của cánh
cực đoan duy ý chí trong đảng, là những người có gốc miền Trung. Phe miền Trung
do thua kém miền Nam và miền Bắc về kinh tế, do đó thiên về hướng bảo thủ nhằm
giữ lấy quyền. Vô hình chung, thái độ này đã « đóng đinh » VN trên
cây thánh giá XHCN từ năm 1990. Nếu không thì VN đã theo mô hình dân chủ tự do
từ đó, với những người CS tiến bộ như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân
Bách…).
Giả sử bây giờ Mỹ
muốn giúp dân chủ VN thì cũng không biết giúp ai ? Có đảng phái, tổ chức
dân chủ nào có trọng lượng hiện nay để mà Mỹ giúp ?
Việc
Mỹ bán (giới hạn) vũ khí sát thuơng cho VN dầu vậy cũng để dành một cơ hội để
phe dân chủ VN và những người tiến bộ trong đảng CSVN nắm bắt. Nội tình đảng
CSVN phân chia ra sao, Hoa Kỳ nắm vững. Họ không hề xem VN là một nước
đáng tin cậy. Bởi vì lực lượng đảng viên theo TQ vẫn chiếm đa số trong
đảng.
Biến
cố dàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN đã khơi dậy lòng yêu nước nơi mọi
người Việt, bất kể quá khứ cũng như lập trường chính trị. Lẽ ra, từ điểm tựa
này, nếu có một « chất xúc tác » hữu hiệu, thì rất có thể lực lượng
người Việt tại Hoa Kỳ có thể vận động hành lang để chính giới nước này thông
qua một luật tương tự « Taiwan Relations Act ». HK sẽ ủng hộ VN, bán
vũ khí để VN « tự vệ » và tranh chấp Biển Đông phải được giải quyết
bằng (các phương tiện) hòa bình.
(Ta
không nên đánh giá thấp tiềm năng kinh tế của lớp người Việt hải ngoại. Lớp
người này gởi về VN hàng năm trên 10 tỉ đô la. Số tiền này VN có thể mua bất kỳ
loại vũ khí tối tân nào của Hoa Kỳ.)
Biến
cố giàn khoan 981 cũng đã tạo ra cho VN nhiều cơ hội để đạt được mục đích của
mình, phía chính quyền cũng như phe dân chủ. Đáng tiếc là cơ hội đã đi qua.
Phía TQ đã thấy được sai lầm của họ và đang cố gắng sửa chữa. Ngoại giao con
thoi, qua lại giữa các viên chức VN và TQ gần đây cho thấy hai bên dường như đã
« quên » quá khứ. Mọi việc đi vào « nề nếp » như trước.
Lãnh đạo CSVN đã bỏ qua một dịp may bằng vàng để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa
(và Trường Sa) với TQ bằng phương pháp hòa bình, rất thông dụng là Tòa quốc tế.
VN cũng bỏ mất dịp may để đưa vùng biển Hoàng Sa trở lại thành vùng VN có tranh
chấp với TQ.
Còn
phe dân chủ VN thì sao ? Bất lực vì không thể lấy hứng từ « cách mạng
dù » của sinh viên học sinh Hồng Kông. Vì giáo dục của VN chỉ có khả năng
đào tạo ra « con cừu » chứ không có khả năng đào tạo thành ra con
người tự chủ, hữu dụng. Các cuộc cách mạng màu, cách mạng hoa hòe cũng qua đi
mà dân chủ VN chỉ « ngóng », không lấy « hứng » được điều
gì ! Xã hội VN nó vậy thì phải bó tay thôi.
Chỉ
còn con đường của trí thức Đài Loan đã đi. Việc này tôi đã nói đi nói lại nhiều
lần trong quá khứ. Trí thức VN nên học tập trí thức « đảng ngoại »
của Đài Loan vào thập niên 70, 80, sinh hoạt dưới sự bảo vệ của pháp luật hiện
hành, trưởng thành lên từ đó. Bối cảnh
VN hôm nay khá giống với Đài Loan thập nên 80. Đài Loan cần Mỹ, cũng như VN cần
Mỹ. Mỹ thỏa mãn ý nguyện của Quốc dân đảng với điều kiện dân chủ hoá chế độ.
Dân chủ VN cũng có đến bằng con đường tương tự. Vấn đề là dân chủ VN chưa
xây dựng được lực lượng.
Phải
bắt đầu ở điểm bắt đầu thì mới có thể đi hết con đường.
Publié
par Nhan Tuan Truong à 23:22
No comments:
Post a Comment