Tuesday, October 25, 2011

VIỄN TƯỞNG II : SUY NGHĨ VỀ SỰ NGHIỆP DUY TÂN ĐẤT NƯỚC [III] - (Nguyễn Trung)


Nguyễn Trung
(viet-studies 26-10-11)
III. Những hòn đá tảng và hố đen trên con đường

Có nhiều lắm. Từ lịch sử để lại, và từ những hậu quả do thể chế chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước hôm nay gây ra. Chẳng có cách nào khác, ngoài ý chí nhìn thẳng vào sự thật và chân cứng đá mềm.
Không thể đề cập hết được mọi chuyện trong bài viết này, dù là chỉ lựa chọn những vấn đề lớn. Trong phần III này tôi chỉ xin lẩy ra 2 vấn đề mà tôi cho là nóng bỏng nhất:
1. Quán tính lịch sử,
2. Tình trạng đoàn kết dân tộc hôm nay.

III.1. Quán tính lịch sử
Đây là một trong những chủ đề lớn, tôi đã đề cập đến trong tiểu thuyết “Dòng đời” - xuất bản năm 2006[17]
Gọi là quán tính lịch sử, tôi hiểu đơn giản đấy là những gì lạc hậu vốn có trong quá khứ của đất nước, cách mạng đã tìm cách xóa bỏ hay thay đổi rất triệt để. Nhưng vì nhiều lý do và nguyên nhân khác nhau, hôm nay những cái cần và phải xếp vào kho lưu trữ của lịch sử như thế cứ tự nó sống lại, hoành hành dữ dội, như thể theo một chu kỳ nào đó của quán tính.
Cái quán tính lịch sử này rất oái oăm và gây ra không ít đau khổ cho đất nước, đã được dân ta bao đời dưới chế độ phong kiến khái quát trong một câu ca dao cửa miệng:
Con vua thì lại làm vua
Con lão sãi chùa lại quét lá đa
Đơn giản là vì cái quán tính lịch sử này thường đảo lộn hay băng hoại hầu hết mọi giá trị hay những nỗ lực tốt đẹp của xã hội, mà trước đó nhân dân và những lực lượng tinh túy của mình phải đổ xương máu mới giành lại hay mới xây dựng nên được, ví dụ chiến đấu dẹp bỏ một triều đại thối nát để dựng lên một triều đại lành mạnh mới. Một khi cái quán tính lịch sử này trỗi dậy, có nghĩa là một chu kỳ mới của cái vòng đời oái oăm đầy đau khổ của đất nước lại bắt đầu…
Tôi vấp phải cái quán tính lịch sử này, đơn giản vì ngày càng cảm thấy, đất nước độc lập thống nhất vừa mới đây thôi, nghĩa là cả một quá khứ hào hùng đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm còn nóng hổi, biết bao nhiêu giá trị cao quý rèn luyện được trong quá trình này còn đang nóng bỏng con tim, thế nhưng sao những tiêu cực trong cuộc sống mọi mặt của đất nước hôm nay cứ như cỏ dại khắp nơi không sao diệt được, càng ngày càng khó diệt. Tất cả chẳng dính dáng gì đến chủ nghĩa xã hội hay định hướng xã hội chủ nghĩa được chọn lựa là mục tiêu phấn đấu.
Tôi nhờ các nhân vật trong truyện làm người phát ngôn cho nỗi lo của mình:
“...bi kịch lớn nhất của cuộc đời ở mọi quốc gia thường là thắng lợi của một cuộc cách mạng trở thành một thứ chiến lợi phẩm! Kẻ thắng xô sát nhau chia quả thực! Ai nhặt được cái gì thì nhặt! Ai giành được cái gì thì giành!..” (tập II).
“…tệ nạn tham nhũng... Sự bóc lột này lớn hơn hàng trăm lần, hàng nghìn lần, hàng nhiều nghìn lần so với sự bóc lột thặng dư giá trị còn đang tồn tại trong xã hội nước ta...” (tập III). Tất yếu dẫn đến câu hỏi “Đất nước này bây giờ là của ai?”
Hệ quả của những tiêu cực này lớn lắm. “...30 năm xây dựng rồi mà vẫn chưa bước ra khỏi nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới! Vẫn còn là một quốc gia lạc hậu!..” “...Chẳng lẽ đã giành lại đất nước rồi, bây giờ lại chịu để mất nước vào cái kiếp nô lệ của nghèo hèn và lệ thuộc?..” (tập IV) Làm gì? Làm như thế nào chặt đứt vĩnh viễn các vòng xoáy của quán tính lịch sử hành hạ đất nước?..
Truyện kết thúc, vợ của nhân vật chính nhắc nhủ chồng – thương binh đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phạm Trung Nghĩa,: “Anh chưa hiểu hết bao nỗi lo này đâu… Anh và các đồng chí của anh đang phải bắt tay vào nhiệm vụ khó nhất trong đời mình!..[18]
Sao? Suốt một đời người trực tiếp trải qua 4 cuộc chiến tranh rồi, bỏ lại một chân trên chiến trường, tóc bạc răng long hết cả với nhau rồi, thế mà bây giờ lại phải cùng với những chiến hữu của mình bắt tay vào nhiệm vụ khó nhất của đời mình?.. Thế là thế nào?!..
Thăm thẳm nỗi lo khủng khiếp về cái quán tính lịch sử, nỗi lo lại phải làm lại từ đầu!…
Từ cái chân giả làm bằng gỗ của đại tá thương binh Nghĩa, trăm ngàn tiếng thét của những người đã ngã xuống vang lên như búa bổ liên hồi trong đầu đại tá:
- “Không được phản bội một hy sinh nào!”
- “Không một mất mát nào được bỏ qua!..” [19]
-
Trên đây là những thứ từ ngoài đời, được chắt lọc gửi gắm vào truyện.
Truyện mới ra mắt bạn đọc được dăm sáu năm nay, nhưng cái quán tính lịch sử hiện hữu trong đời sống hôm nay yêu quái hơn, hiện đại hơn nhiều lần trong truyện; tinh vi, đau buốt, đồi bại, tàn phá hơn nhiều lần trong truyện… Đất nước cũng đang oằn lên hơn nhiều lần – chỉ cần xem tầm vóc các vụ tham nhũng đổ bể ngày càng lớn hơn, xem các chỉ số lạm phát dăm năm trở lại đây, xem báo chí bị bưng bít gắt gao hơn, quyền của người dân bị xâm phạm, bị tước bỏ nhiều hơn, môi trường bị tàn phá nghiêm trọng… Chưa nói đến tình trạng tội phạm hình sự quá trầm trọng và số tuổi trẻ phạm trọng tội ngày càng nhiều. Lại còn thêm nỗi lo thâm nhập của quyền lực mềm!..
Câu chuyện trong Bài 2 này không còn bàn về sự hiện hữu của cái quán tính lịch sử nữa, mà chuyển sang xoay quanh cái đang lên ngôi của nó, với tất cả những mầm mống sẵn có của nó từ cái xã hội phong kiến trước kia, ủ kỹ trong môi trường sống của đất nước, đang được thời thi nhau trỗi dậy, nảy nở, bây giờ lại được cộng nhập vào cái mới có hôm nay, với tất cả dây mơ rễ má chằng chịt trên dưới ngang dọc chéo, mang đủ mọi màu sắc xanh đỏ tím vàng, được sản sinh ra từ cái thượng tầng kiến trúc mới tạp-pí-lù đang được hiện đại hóa một cách tạp-pí-lù trong quá trình hội nhập hôm nay…
Một quốc gia vốn mang sâu trong mình tàn dư phong kiến lạc hậu như thế, nhưng lại không có đủ bản lĩnh chăm lo được cho mình có một cơ thể lành mạnh với sức đề kháng tốt để hội nhập, làm sao có khả năng hấp thụ có chọn lọc và sáng tạo? Cho nên cái du nhập và thâm nhậm tạp-pí-lù vào phần xác và phần hồn cơ thể quốc gia mình hôm nay như đang diễn ra là hệ quả tất yếu.
(Cái “chết” của nước ta bây giờ có lẽ là ở chỗ trong thời hội nhập ngày nay nước ta cái gì cũng có, cũng giành được chút xíu, song trong mỗi cái chút xíu ấy cái của chính ta, cái trở thành là ta, không bao nhiêu; mà trong khi đó cái lai căng, cái rởm thường là quá nhiều, lấy đi của ta quá nhiều, lấn át đi quá nhiều cái là chính ta và cái thành là ta. Không kể đến những cái không mời,những cái không muốn mà tự nó cứ ùn ùn đổ vào nước ta… Trạng thái này đều có trong kinh tế, trong nghiên cứu khoa học công nghệ, trong đời sống văn hóa, trong giáo dục, trong tư duy, trong lựa chỗ đứng cho đất nước trên thế giới, trong tầm nhìn xây dựng và bảo vệ đất nước, trong đối ngoại… Kết cục hiện nay cái ta là ta và thành là của ta còn quá khiêm tốn, chưa tạo ra được bao nhiêu sự phụ thuộc lẫn nhau cần phải có, mà chủ yếu hiện nay cái ta lệ thuộc vẫn nặng hơn.
Không thể đổ lỗi cho yếu kém, mà phải nhìn nhận ta chưa có bao nhiêu cái ý chí giác ngộ sự yếu kém của mình. Trên đời này không gì buồn hơn khi ta tồn tại mà lại không hẳn chính ta là ta! Trong thâm tâm tôi cứ vấn vương câu hỏi: Kể từ khi nước ta tiếp xúc với thực dân Pháp giữa thế kỷ thứ 19 cho đến nay, khoảng một thế kỷ rưỡi trôi qua, nhưng vì sao nước ta vẫn cứ ở trạng thái chung chiêng, lơ mơ, không biết người biết ta cho đến nơi đến chốn trong cái thế giới chẳng dung tha chút nào cái lơ mơ thế này? Hình như ta vẫn cứ phải mượn kính của người mà đọc cái thế giới này, mượn được cái kính nào thì đọc như thế. Ta đọc được cái xu thế tất yếu của thời đại, nhưng lại chưa sao thấy rõ được cái xu thế phát triển của cái thế giới đương đại, cách ta nhìn cái thế giới hiện hữu quanh ta càng lôi thôi…Và cho đến hôm nay, hình như ta vẫn chưa sao đọc chính xác được mình! Trong khi đó hòa nhập, hội nhập vào thế giới đòi hỏi phải thực sự biết người biết ta... Nghĩa là ta đến hôm nay – hết thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 này rồi, thế mà vẫn còn lúng ta lúng túng chưa sao tạo ra được vị thế cần phải có cho đất nước. Đổ bao xương máu từ thế hệ này sang thế hệ khác mà đất nước hôm nay sao vẫn còn bị uy hiếp nhiều bề: Sư uy hiếp của lệ thuộc, của vị trí quốc gia nghèo và thua kém, của tình trạng rất dễ bị chấn thương từ bên ngoài bằng đủ mọi thứ quyền lực!.. Cứ nhìn các bước đi của thiên hạ như thế nào, để không thể nào dửng dưng, lại càng không thể cứ dương dương tự đắc mãi không chán là đã từng đánh thắng mấy đế quốc to!.. Đất nước phải thay đổi quyết liệt để sang một trang khác…)
Từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay, đất nước chưa bao giờ có nhiều như bây giờ những thứ có tên gọi như chức tước, danh tước, chức sắc, quân hàm, huân chương, bằng cấp, cấp bậc, cấp ủy, trật tự dọc trên dưới… Chưa bao giờ có nhiều như bây giờ sự phân chia lợi - quyền ngang dọc chéo, hoạt động lễ nghi, lễ lạp, hội hè, cúng bái, mê tín dị đoan, có quá nhiều ma chay, cưới xin, bói toán… Chất lượng của những thứ bên trong mỗi cái tên gọi này nhìn chung thấp, lẫn không ít của giả, có những thứ có thể mua được. Danh sách những tên gọi này khá dài, trong khi đó văn hóa lai căng tràn lan.
Chỉ cần hình dung mỗi một cái tên gọi như thế chứa đựng bên trong những gì, rồi tập hợp những cái tên gọi ấy lại trong một hệ thống ma trận (matrix) cấu trúc hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của đất nước, cũng có thể hình dung ra toàn bộ cái linh hồn, cái thượng tầng kiến trúc, các hệ thống, bộ máy, cỗ máy, đơn vị vận hành hay là phục vụ cho sự vận hành của sơn hà xã tắc nước ta hôm nay. Sẽ thấy được tất cả những thứ này cồng kềnh, nhiễu nhương, phức tạp, riêm rúa, ít chất lượng và kém hiệu quả như thế nào. Cũng không biết bao nhiêu hủ tục rơi rớt lại từ ngàn xưa khắp chốn trong nước, nay bỗng dưng được phục hồi, được nâng cao đến tầm nhìn nhận nó là văn hóa, hay là cố ý nhầm lẫn nó là văn hóa… – và xa hơn nữa là làm những việc này nhân danh gìn giữ truyền thống, gìn giữ văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc… Các bước đi của đất nước vì thế rất chậm chạp, hoặc có khi một bước tiến vài bước lùi, tiến chỗ này lùi chỗ khác…
Khái quát lại về thực trạng thượng tầng kiến trúc đất nước và ảnh hưởng của nó, tôi muốn ký hoạ một hình ảnh thế này: Từ khởi sự đổi mới đến năm 1995, nền kinh tế nước ta là một thanh niên tràn đầy sức sống, trên mình anh ta là bộ quần áo rách toác vì các cơ chế chính sách chạy theo không kịp sức lớn và hoạt động năng động của anh ta. Hình ảnh kinh tế nước ta hôm nay là một người có nhiều biểu hiện già trước tuổi, sử dụng quá nhiều thuốc “ICOR” tăng lực, trên mình anh ta có quá nhiều xiêm áo, khung, mũ mão hàng mã và các đồ trang sức hàng tạp hóa, anh ta bây giờ đi đứng chậm hẳn và khó có khả năng tung hoành dọc ngang!..
Ví von là như vậy.
Cái chất phong kiến còn sót lại khá đặm đặc như vậy trong phần xác phần và phần hồn cơ thể đất nước hôm nay sao có những nét hao hao đáng sợ so với những gì sử gia Trần Trọng Kim đã ghi lại về triều chính các vua nhà Nguyễn và những gì có thể đọc được trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Quả thực đã hai thế kỷ trôi qua, nhưng đất nước chưa tiến xa cái quá khứ đau buồn của mình được bao nhiêu.
Bác sỹ P. H…, Thành phố Hồ Chí Minh, mổ xẻ: “Cho dù là người lạc quan nhất bạn cũng cảm thấy bi quan và phẫn nộ khi nhìn chung quanh mình. Phải nhìn nhận rằng tình hình đất nước không khả quan. Biên giới bị kẻ thù xâm lấn. Ngư trường bị kẻ thù chiếm đoạt và kiểm soát. Kinh tế suy thoái. Lòng người ly tán. Cái ác lên ngôi. Đạo đức suy đồi. Hệ thống giáo dục và y tế rối beng. Nhìn chung, nền tảng xã hội bị lung lay đến tận gốc. Tất cả những nét vẽ đó làm cho bức tranh xã hội Việt Nam ảm đạm. Nghèo. Hèn. Câu hỏi là “tại sao”. Tại sao nên nông nỗi này?... Ai cũng có thể tìm cho mình câu trả lời. Có thể nhiều câu trả lời. Nhưng quan điểm cá nhân, tôi nghĩ đến một câu trả lời đơn giản nhất. Lãnh đạo. Nói chính xác hơn là do lãnh đạo bất tài nên đất nước mới ở trong tình thế nghèo hèn như hôm nay…”[20]
Xin tất cả - người dân và người cầm quyền đất nước - cùng nhau ngẫm nghĩ cho kỹ, để nhìn thẳng được, nhìn thấu được thực trạng đất nước hôm nay, nhận diện chuẩn xác nó, cùng nhau hành động xoay chuyển nó. Đây chính là công việc của cải cách, của dấy lên trong đất nước một cao trào duy tân.
Người dân không đứng lên giành lấy cho mình sự giác ngộ như thế, sao tránh khỏi hoạt động thụ động theo kiểu bày đàn? Vâng, người dân phải vượt qua nỗi sợ của mình, đứng lên giành lấy. Vì không thể trông chờ vào bất kỳ sư ban cho hay lòng bác ái nào.
- A ha, thế là duy tân đang xúi giục dân đứng dậy?
- Đúng. Nhưng với sự giác ngộ tự giành lấy. Một khi sự giác ngộ như thế của dân được tạo mọi điều kiện để trở thành tiếng nói phải được lắng nghe, phải được chấp thuận, phải được thực hiện, có lẽ có thể tránh được các cuộc nổi dạy, và như thế sẽ sang trang được lịch sử.
Người cầm quyền không giác ngộ như vậy, khác gì tự tay xây đắp cho chính mình sự đổ vỡ không thể đảo ngược được? Trên hết cả, người cầm quyền, lại do Đảng lãnh đạo, không đi với dân thì đi với ai? Không vun đắp cho cái giác ngộ của dân, không tạo ra tiếng nói như thế của dân từ sự giác ngộ này thì làm gì? Lãnh đạo là gì?
Vì vậy, xin người dân và người cầm quyền đều phải cùng nhau ngẫm nghĩ, cùng nhau ai phải thực hiện trách nhiệm nấy, không nhầm việc nhầm chỗ. Để sau này đừng một ai nói rằng: “Tôi không biết!”.
Xin nói thêm một ý khác nữa:
Có nhận xét “dân nào, chế độ ấy”. Điều này cũng có cái lý của nó. Tình trạng đất nước như hôm nay, có một phần nhất định do dân ta vốn như vậy, chấp nhận như vậy, cam chịu như vậy.
Xin nói thực thà với nhau thế này để cả người dân và người cầm quyền cùng nghe: Tình trạng như hiện nay ở nước ta mà rơi vào các nước khác như Ai Cập, Tuy-ni-di.., có lẽ phải xảy ra đến hai hay ba mùa “hoa lan hoa nhài” rồi. Ở nước ta không. Vì dân ta tốt quá, cái đó đúng. Vì dân ta còn thương Đảng lãnh đạo quá, cái đó đúng… Vì nhiều thứ nữa… Song còn vì một phần là dân ta vốn như thế… Tôi trạnh nhớ đến anh Hoàng Ngọc Hiến: “Cái nước mình nó thế…”
Tuy nhiên, phải công bằng. Trong bài viết về vấn đề hiền tài, tôi cho rằng: “Một xã hội chịu tác động như thế ngày này qua ngày khác, cùng với nền giáo dục như đang được tiến hành, dần dà cũng tạo nên một thứ văn hóa cần thiết cho sự tồn tại hàng ngày của chính xã hội ấy.”[21] Cho nên, ngày nay “cái nước mình nó thế” còn là hệ quả, là sản phẩm tất yếu của chế độ chính trị nước ta hiện nay. Nhẹ nhàng hơn thì cũng phải nói: Chế độ chính trị nước hiện nay góp phần không ít nuôi dưỡng và làm trầm trọng thêm trạng thái “cái nước mình nó thế”.
Đây chính là một khía cạnh khác nữa vô cùng quan trọng của cái quán tính lịch sử mà duy tân sẽ phải đối mặt!
Có ý kiến viện dẫn câu nói của J. P. Sartre để lý giải, đại ý: Sống trong xã hội gian dối, người không biết nói dối trở thành kẻ vô lại. Cuộc sống cũng thừa nhận có hiện tượng này. Song tôi muốn thiên về ý: Nhận biết thực trạng này, là để khắc phục nó. Vì vậy duy tân phải làm được vai trò đánh thức dân đối với thực trạng này. Cụ Phan Chu Trinh đặt vấn đề khai dân trí trước tiên, có lẽ vì coi nhiệm vụ duy tân trước hết là như vậy. Tôi mong duy tân thay đổi được “cái nước mình nó thế”.

III. 2. Tình trạng đoàn kết dân tộc hôm nay
Xin nói rõ, trước bước ngoặt định mệnh của đất nước, đoàn kết dân tộc trước hết phải là vì nhau và cùng nhau xả thân cho một Việt Nam là tổ quốc ngay trong tim của mỗi người con trong cộng đồng dân tộc Việt Nam ta, là cùng nhau xây dựng một thể chế dân chủ vận hành đất nước có phẩm chất gần như đồng nghĩa với tổ quốc – nghĩa là không thể để cho việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân vì dân chỉ là một khẩu hiệu.
Đoàn kết dân tộc với nội dung như vừa trình bầy là sự cố kết của ý chí, trí tuệ, tâm huyết với dân tộc, với đất nước, là cố kết của các giá trị chân chính và của đạo đức, của sự khác biệt sáng tạo và phẩm chất của từng cá nhân được tiếp tục trau giồi, rèn luyện, để từng người và toàn dân tộc phấn đấu về một hướng cho một Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.[22]
Đoàn kết dân tộc với nội dung mới như thế không thể chỉ là “xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điềm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc.., đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa khoan dung…[23].
Đoàn kết dân tộc như vậy vượt ra ngoài cả liên minh công nông và trí thức, vì nó là cố kết lại với nhau của sự giác ngộ của từng người Việt Nam dù là ai – sự giác ngộ về thực trạng đất nước, về vị thế yếu kém hiện nay của Việt Nam trong thế giới này, về những thách thức đất nước đang phải đối mặt, và từ đó quyết tâm cùng nhau phấn đấu đưa đất nước mình vươn lên thành một quốc gia văn minh trên thế giới. Bên cạnh một Trung Quốc bá quyền và muốn siêu cường, dân tộc ta càng phải cố kết lại với nhau như thế.
Đoàn kết dân tộc như thế còn vượt xa rất nhiều cả “khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ[24] để cùng nhau giương cao ngọn cờ dân tộc – dân chủ đã từng làm nên mọi thắng lợi và thành tựu của nước ta từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay. (Đáng lo là đến nay cái việc “khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ” vẫn chưa làm xong, về nhiều mặt là chưa làm được!)
Đoàn kết dân tộc như thế từ nay về sau trước hết phải được xây dựng, phải được vun đắp thường xuyên và liên tục đời này sang đời khác bởi một nền giáo dục chân chính.
Ngay sau 30-04-1975, nhiệm vụ đoàn kết hòa hợp hòa giải dân tộc đã được đề ra, song vì có quá nhiều cái tha hóa, cái bất cập, nhất là vì nhìn nhận sai về đòi hỏi phải thống nhất dân tộc trên nền tảng của dân chủ, về chiến lược phát triển đất nước.., cho nên đến nay nhiệm vụ này chưa thực hiện được bao nhiêu, và trên thực tế là còn đứng xa đòi hỏi cố kết dân tộc trong giai đoạn mới của đất nước.
Đoàn kết dân tộc với nội dung như vậy là điều kiện tất yếu phải có cho tồn tại và phát triển đất nước, được đặt ra trước bước ngoặt định mệnh hôm nay.
Từ các phần trên của Bài 2 này, mở rộng ra một chút là từ những vấn đề có liên quan tôi đã trình bày trong Bài 1 và trong bài viết trước nữa về vấn đề hiền tài, tôi kết luận: Chúng ta chủ yếu mới đạt được cố kết dân tộc cho sự tồn tại, cho bảo vệ đất nước, chưa có bao nhiêu yếu tố quan trọng này cho phát triển đất nước trước bước ngoặt mới, cho việc xây dựng truyền thống và văn hóa mới cho phát triển lâu dài sau này. Đấy là kết luận 1.
Xem xét thực trạng đất nước hiện nay như đã trình bày trong bài này và Bài 1 – trước hết là xem xét tác động của tha hóa dẫn tới những biểu hiện của trạng thái mất phương hướng, mất niềm tin, vô cảm, tâm lý bi quan chán trường, tâm lý thực dụng không cần đến ngày mai… trong tâm tư của đại bộ phận nhân dân, tôi đi tới kết luận 2: Hiện nay trong xã hội nước ta đang tồn tại cuộc khủng hoảng tinh thần lớn nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám đến nay – cuộc khủng hoảng các giá trị.
Song ngay trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI cũng chỉ nêu lên đơn giản đại đoàn kết là đường lối chiến lược và diễn giải nội dung rất công thức, song phần đánh giá thực hiện chỉ nêu “dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ.., …chưa được thể chế đầy đủ thành pháp luật, hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc…[25], nghĩa là nhận thức của đảng cầm quyền còn rất xa thực tế cuộc sống và những đòi hỏi hiện nay, chưa làm rõ những vấn đề mới đặt ra. Đây là kết luận 3.
Trong tình hình có 3 đặc điểm như vậy, lại đang lúc đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế kéo dài từ nhiều năm nay, thách thức bên ngoài rất lớn, nhiệm vụ đoàn kết dân tộc cho giai đoạn này vừa càng trở nên khó khăn, đồng thời càng vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định vận mệnh đất nước. Nghĩa là thành hay bại, sớm thoát ra được khỏi khủng hoảng hiện nay để đi vào một giai đoạn phát triển mới, hay lún sâu vào những bước khủng hoảng tiếp trong nước và thất bại trước những thách thức mới từ bên ngoài, phụ thuộc rất nhiều vào thực hiện ra sao nhiệm vụ đoàn kết dân tộc lúc này.
Tôi nghĩ và hy vọng trong vòng vài năm nữa có thể ra khỏi khủng hoảng kinh tế hiện nay để đi vào ổn định, phát triển, nếu… Nhưng tôi chưa thấy trong vòng vài năm tới có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng các giá trị, cũng chưa biết bao giờ có thể khắc phục được cuộc khủng hoảng này. Điều này có nghĩa: Giả thử ra khỏi được khủng hoảng kinh tế hiện nay mà không có cải cách chính trị đi trước một bước, thì nguy cơ quay lại nó khá lớn và rất sớm theo kiểu ngựa quen đường cũ[26], chưa kể đến tình hình xảy ra những đột biến bất khả kháng (tỷ như dịch bệnh, tsuinami, động đất…), hoặc tình trạng xảy ra một domino nào đó, bắt đầu từ … - ví dụ, nước Hy-lạp vỡ nợ chẳng hạn... -, dẫn tới những cơn địa chấn kinh tế ngoài tầm kiểm soát của con người…
Ví dụ, sau khi ra khỏi khủng hoảng kinh tế rồi, mà cái dối trá vẫn ở thế áp đảo trong đời sống mọi mặt – có nghĩa là cái yếu kém vẫn có dinh lũy kiên cố để ẩn nấp, cái ăn thật làm giả vẫn có đất sống, cái giả vẫn có khả năng thắng cái thật..; trong một tình hình như thế, xin hỏi cái trật tự mới vừa giành lại được hay hình thành được sau khủng khoảng, rồi các thể chế, luật pháp, chính sách đã được cải tiến, rồi một số cái tốt khác vừa mới tạo ra được… – vâng, nghĩa là cứ giả định rằng có nỗ lực (hay có phép tiên) đạt được một trạng thái như thế sau khi ra khỏi khủng hoảng, song những cái tốt đẹp vừa mới giành được ấy sẽ bền vững được bao lâu?
Các văn kiện chính thức của BCHTƯ ĐCSVN khóa XI lần đầu tiên chính thức nêu đích danh và lên án các hiện tượng “chạy ghế” và “nhóm lợi ích”, một tiến bộ rõ rệt so với trước đó (cũng có nghĩa là hôm nay những cái “ác” này đã quá trắng trợn, quá lộng hành, không thể lặng thinh được nữa). Tuy nhiên, nhiều phát biểu – kể cả của người có cương vị cao – thừa nhận đến nay chưa phát hiện được một trường hợp “chạy ghế” nào, kêu gọi mọi người chỉ giùm để trừng trị. Sờ mó vào các “nhóm lợi ích” càng không dễ, báo chí đã nói công khai các đoàn kiểm tra, kiểm toán của Quốc hội, Chính phủ nhiều khi không lấy được số liệu cần phải có của các tập đoàn. Bộ trưởng Kế hoạch – Đầu tư có lần phải thừa nhận không kiểm soát hay không nắm được hoạt động của tập đoàn… - nghĩa là căn bệnh đã nặng đến mức cái đầu không vãy được cái đuôi. Vân vân… Cuộc sống thực đến giờ phút này đang là thế.
Như vậy, tiếng nói của đạo đức, của giá trị có được sức nặng bao nhiêu?
Bên trong sự “vô cảm” của những cái “ác” này – đúng hơn có lẽ nên gọi đấy là sự “lỳ lợm” (để tiếp tục vụ lợi), làm gì có có chỗ đứng cho ý niệm về “accountability” (tạm dịch: tính trách nhiệm, tính tin cậy được)? Tính khả thi nào của kỷ cương, luật pháp, chính sách… có thể địch nổi sự lỳ lợm này?
Đến nay, âm thầm hay lộ liễu, sự lỳ lợm vẫn đang thắng. Đồng minh của sự lỳ lợm này là tình trạng bất cập, tình trạng tác trách không thể nào chấp nhận được của một bộ phận không ít những người thuộc biên chế bên Đảng hay bên chính quyền sống ăn lương bằng tiền của dân đóng thuế - một hệ quả tất yếu của toàn bộ chính sách tổ chức – cán bộ và của nền giáo dục nước nhà (bao gồm cả công tác đào tạo cán bộ cho hệ thống chính trị của đất nước). Nơi nương trú của sự lỳ lợm này là bộ máy nhà nước cồng kềnh, chồng chéo và kém hiệu quả. Chỉ một ví dụ mỗi đêm mất 2000 tấn khoáng sản đem đi xuất tại một cửa khẩu ở Cao Bằng mà không gây nhức nhối gì trong toàn bộ hệ thống điều hành đất nước và cứ để cho nó ngang nhiên tồn tại dai dẳng, đủ minh chứng tình hình này[27].
Bây giờ xin nói vài điều về sự vô cảm trong dân, một hình thái phản kháng thụ động hiện nay, một hiện tượng đang mầm mống không biết bao nhiêu hậu họa. Bàn điều này, chí ít để thấy ngay được rằng mọi bưng bít, trấn áp, che đậy, khỏa lấp, mỵ dân, xoa dịu… sẽ chẳng khác gì mấy việc lấy một miếng vải bẩn băng bó một vết loét trầm trọng, tất yếu dẫn đến nguy cơ hoại tử.
Hiện nay tâm trạng dân ta chưa đến nỗi như viên sứ Pháp tại Huế, P. Rheinart, năm 1875 báo cáo cho cấp trên ông ta[28]. Song hiện nay tâm lý chán trường, bi quan, mất lòng tin, thờ ơ, tránh né, quay về tự lo thậm chí tự làm luật, quay về chỉ quan tâm cho mình, quay về chỉ biết mình… trong dân không thể xem thường. Phổ biến vẫn là câu chuyện ngàn xưa “đấu tranh – tránh đâu?” nhưng ngày nay ở mức độ trầm trọng hơn nhiều, giữa lúc ngoài đời đang xảy ra không biết bao nhiêu việc xấu, việc nghiêm trọng, có bao nhiêu việc không thể bàng quan được[29]. Sự thật của bức tranh toàn cảnh ngoài đời này khác rất xa so với những gì có thể thấy được, nghe được, những gì được phản ánh qua các buổi truyền hình “các đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri” – dù là ở ngay thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, hay ở bất kỳ một tỉnh nào, một khu vực bầu cử nào trong cả nước. Có thể nhận xét: Bức tranh toàn cảnh ngoài đời là sự thật, còn cách tiếp cận và xử lý sự thật theo kiểu như trên tivi nói trên chỉ là “chuồn chuồn đập nước” – chủ yếu vẫn là làm cho có làm, sờ mó được bao nhiêu vào sự thật để xử lý? Nghĩa là cái dân chủ đại diện trong thể chế chính trị của nước ta chỉ có thể đạt được kết quả có tính hình thức như vậy. Làm thế nào bây giờ?
Đang xảy ra hiện tượng một số nước ngừng nhận tiếp lao động Việt Nam sang làm việc, trước hết vì số lao động theo hợp đồng bỏ trốn việc để cư trú bất hợp pháp tại nước chủ nhà lớn quá, tình hình còn tiếp diễn. Số phụ nữ ta lấy chồng nước ngoài ngày càng nhiều, có quá nhiều bi kịch đau thương, có quá nhiều trường hợp biến thành việc buôn bán phụ nữ một cách ghê sợ.., song tình hình này vẫn tăng lên ở nhiều tỉnh. Có doanh nghiệp, có người, đã lo “để” tài sản của mình ở nước ngoài, không phải là vì kinh doanh hay là “tuồn ra ngoài” do gian lận, mà - có người đã nói thẳng với tôi là - vì “tâm lý chợ chiều”…
Ngoài bao chuyện đau lòng về “hình ảnh người Việt” ra, đằng sau, sâu xa bên trong tất cả những hiện tượng vừa nêu trên là gì, là trạng thái gì của đất nước ta hôm nay? Làm sao không lo lắng được trước những hiện tượng như vậy? Cố kết dân tộc lại với nhau như thế nào bây giờ trong tình hình như vậy?
Nhưng lúc này đất nước không thể không thực hiện đoàn kết dân tộc. Chẳng lẽ cứ phải chờ đến lúc Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông ta mới thức dạy cụm lại?
Song rõ ràng, chỉ có thực thi luật pháp, thực thi dân chủ (giả thử là thực hiện được) mà không đồng thời duy trì, phục dưỡng và tôn vinh các giá trị, làm sao có đoàn kết dân tộc? Mà không có cái này thì cũng chẳng có cái kia.
Hiển nhiên, như thế để bảo vệ và xây dựng đất nước ngày nay đi lên văn minh hiện đại, nhất thiết phải kinh qua một cuộc cải cái triệt để, sâu rộng thể chế chính trị và thượng tầng kiến trúc của đất nước, thậm chí cuộc cải cách này phải đi trước một bước. Bởi vì, đoàn kết dân tộc để bảo đảm giành thắng lợi trước hết là thực hiện sự cố kết các giá trị của dân tộc, chẳng cố kết giai cấp nào thay thế được nó cả. Làm sao thiếu được một cao trào duy tân cho một cuộc cải cách như thế?
Trí thức nước nhà và những người nắm quyền lãnh đạo đất nước nghĩ gì?
.
.
.

No comments:

Post a Comment