Saturday, July 25, 2009

HOA KỲ TRỞ LẠI CHÂU Á


South China Morning Post
Hoa Kỳ trở lại Châu Á, tuyên bố của Ngoại Trưởng Clinton
Washington bênh vực cho các mối quan hệ cũ, tiến tới với những mối quan hệ mới nhằm đối chọi với ảnh hưởng của Bắc Kinh
US is back in Asia, says Clinton

Washington to bolster old ties, forge new ones to match Beijing's influence
DIPLOMACY: ANALYSIS
Greg Torode Chief Asia correspondent
Jul 23, 2009
Greg Torode, Trưởng đại diện tại Á châu
Bài phát biểu hôm qua của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hyllary Rodham Cllinton về khu vực này rằng “Hoa Kỳ đang trở lại” có thể có ý nghĩa nhiều hơn là một lối cường điệu về động thái đó – mặc dù nó vẫn được củng cố bằng những khuynh hướng mang tính chiến lược được thực hiện khắp khu vực Đông nam Á.
Bằng việc Bắc Kinh đang có những mối quan hệ được cải thiện với lần lượt từng quốc gia Đông nam Á trong khoảng một thập kỷ qua, thì Washington cảm thấy đã đến lúc phải “cân bằng lại”, và lặng lẽ tranh thủ các mối quan hệ hữu nghị mới và ve vãn các đồng minh cũ lần nữa.
Sự hiện diện của bà Clinton tại hội nghị thường niên của khối Asean nổi tiếng thiếu sinh lực đơn thuần là một dấu hiệu cho những bước phát triển đó.
Nếu như xu hướng này là hiển nhiên trong suốt những năm tháng suy tàn dưới nhiệm kỳ tổng thống George W. Bush, thì nó đang được gia tăng xung lượng dưới chính quyền Tổng thống Barack Obama. Những mối gắn kết từ lâu với Indonesia, Thái Lan và Malaysia đang được đánh bóng, trong khi những mối quan hệ với Việt Nam, từng là một kẻ thù cay nghiệt, đang nồng ấm đáng chú ý.
Washington cũng đang xem xét lại cách tiếp cận của mình với những viên tướng lĩnh ngoan cố cai trị Myanma và đang tìm cách làm sao gần gũi hơn với khu vực này nhằm thúc đẩy sự thay đổi trong chế độ cai trị khó chịu nhất ở Đông nam Á đó. Thêm nữa, nhìn chung Hoa Kỳ đang cố gắng lưu lại trên sân khấu khu vực này, để cuối cùng tiến tới ký kết Hiệp ước Hợp tác và Hữu nghị với Hiệp hội Các quốc gia Đông nam Á – một cam kết giúp giải quyết các tranh chấp trong khu vực một cách hòa bình.
“Thông điệp mà chúng tôi đang nhận được từ khu vực này là đã đến lúc,” một quan chức trong chính phủ Obama tuyên bố. “Không có nước nào mang ý muốn quay lưng lại với Trung Quốc, song chúng tôi đang nhận được cảm giác mạnh mẽ rằng họ muốn cân bằng lại.
“Họ biết Hoa Kỳ vẫn quan trọng về lâu dài và đang vươn tay ra xa hơn và chúng tôi đang cố gắng đảm bảo chắc chắn là chúng tôi đáp ứng nhiệt tình. Đây là một cơ hội mà chúng tôi không thể bỏ lỡ.”
Cuộc trò chuyện riêng với các nhà ngoại giao kỳ cựu của Đông nam Á và các câu chúc tụng xã giao sẽ để lại tiếng vang. Trong một thế giới đa phương thì điều này là quan trọng để thông cảm được với tất cả các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Bất cứ mối quan hệ nào với một cường quốc mới đang nổi lên, ví như Trung Quốc, đều phải được cân bằng với một nguồn sức mạnh truyền thống, là Hoa Kỳ.
“Để cho một khu vực được ổn định trong tương lai, chúng ta sẽ cần tới cả hai và tôi nghĩ hai gã lớn đầu này đều hiểu được điều đó,” một phái viên của Thái Lan nhận xét.
Tuy nhiên, các nước khác thì thẳng thừng hơn, họ khơi gợi rằng Trung Quốc đã mạo hiểm khi sơn phết che giấu bàn tay mình sau một thập kỷ được tín nhiệm. Xác nhận mới đây của Bắc Kinh đối với các yêu sách chủ quyền bao quát rộng lớn trên Biển Đông [Biển Nam Trung Hoa] là một ví dụ như vậy.
Cam kết của Hoa Kỳ trong khu vực này tỏ rõ sắc thái cao độ đem đến tính đa dạng về chính trị và văn hóa của nó.
Mối quan hệ với Indonesia – một câu chuyện thành công về dân chủ đáng kinh ngạc – là một sự đảm bảo chắc chắn cho việc thu hút sự chú ý đáng kể trong nửa năm sau này. Washington hăng hái loan báo tính hiệu quả của nước này không phải chỉ là một quốc gia Hồi giáo đông dân nhất trên thế giới mà còn nằm trong số nước ôn hòa nhất và là đất nước đã xử lý thành công chủ nghĩa khủng bố. Phần cuối của kịch bản đó rõ ràng đang được viết lại trong sự phục hồi các cuộc đánh bom ở Jakarta vào tuần trước.
Tiếp theo là tác dụng đòn bẩy độc nhất vô nhị từ ông Obama, người đã trải qua một phần thời thơ ấu của mình tại Jakarta và như một hệ quả, người ta có thể cho rằng ông là chính khách gần gũi với quần chúng nhất tại đất nước này.
Ông Obama cũng không muốn hờ hững với nước láng giềng liền đó là Malaysia. Ông đã nhấn mạnh vai trò của nước này như là tiếng nói hàng đầu về lòng khoan dung có liên quan tới Hồi giáo trong bài phát biểu của ông ở Cairo mới đây trước thế giới Hồi giáo.
Ít rõ ràng song lại gây ấn tượng hơn nữa là mối quan hệ về quân sự mới ra ràng của Việt Nam với Hoa Kỳ. Vào tháng Tư, các quan chức quân sự Việt Nam đã tụ tập tại phi trường Tân Sơn Nhất Thành phố Hồ Chí Minh – từng là một biểu tượng cho cuộc xung đột của Mỹ với Hà Nội – và bay ra một chiếc hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ.
Và mới tuần trước, vị đại diện ngoại giao tại Á châu của Washington, ông Scott Marciel, đã có một động thái khác thường khi biểu thị mối quan ngại về những căng thẳng trong khu vực trên Biển Đông, nơi cư ngụ của một đội tầu ngầm Trung Quốc đang được khai triển. Ông đặc biệt đề cập đến những cảnh báo của Trung Quốc đối với các công ty dầu lửa Hoa Kỳ đã tham gia vào những thỏa thuận khai thác hợp pháp với Việt Nam.
“Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã và đang thúc giục họ, và xin nói thẳng là họ đã không không đáp lại điều đó,” một quan chức từ Ngũ Giác Đài đã nói về các đối tác Việt Nam như vậy. “Giờ đây họ đang đóng vai trò chính. Họ muốn nâng cấp độ trao đổi đôi bên.”
Kế đến có Thái Lan. Những đảm bảo từ lâu với đời sống được dẫn lối chỉ đường tại một trong những quốc gia tự do nhất, dân chủ nhất trong khu vực đang đi đến chấm dứt khi vị vua được tôn kính, Vua Bhumibol Ađulydej, bước vào buổi hoàng hôn trong triều đại đã kéo dài của mình. Bắc Kinh cũng có những mối quan hệ lâu năm và sâu sắc với giới tinh hoa ở Bangkok.
Cả Bắc Kinh và Washington đều đang để mắt tới nhau một cách thận trọng quanh vấn đề Thái Lan và bà Clinton sẽ tìm cách chống đỡ cho vị thế của Hoa Kỳ trong thời gian bà lưu lại Thái Lan vào tuần này.
Trong khi bà có thể tuyên bố công khai rằng Hoa Kỳ đang trở lại, thì lặng lẽ hơn, các nhà ngoại giao ở Washington đang cố gắng cho thấy rằng họ chưa bao giờ thực sự từ bỏ mục tiêu này.

-----------------------------------
Hiệu đính:
Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009
24/07/2009
http://anhbasam.wordpress.com/2009/07/24/244-hoa-k%e1%bb%b3-tr%e1%bb%9f-l%e1%ba%a1i-chau-a/#respond

-----------------------



Cam Bốt và những cuộc xâm nhập bí hiểm của Trung Quốc
China Makes Deep Inroads into Cambodia
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Hai, ngày 20-7-2009 *
Sau một giai đoạn dài bị kiềm chế, sự hiện diện về mọi mặt của Trung Quốc tại Cambodia đang gia tăng, và dấu ấn về cái gọi là “ảnh hưởng Trung Quốc” tại quốc gia nghèo khó này là rất đáng kể. Trong khi các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc đang đổ tiền vào các dự án bất động sản Phnom Penh, thì Trung Quốc lại tìm cách kết hợp một dòng chảy của đầu tư quốc gia và tư nhân với lượng viện trợ khổng lồ hiện đang biến đổi hoàn toàn nhiều vùng nội địa rộng lớn của Cambodia. Trang Newsmekong.org mới đăng tải bài phân tích về sự xâm nhập mạnh mẽ của người Hoa tại Cambodia:

Chem Hout đang ngồi trong quán cafe Maxxi tại một khu phố sầm uất ở Sisophon – thủ phủ tỉnh Banteay Meanchey, miền Tây Cambodia – để đợi chuyến xe buýt chở cậu con trai 9 tuổi đi học sắp về. Rồi thì chiếc xe cũng đỗ xuống, thân xe mang những ký tự tiếng Trung của một trường song ngữ Trung Quốc tại địa phương. Đó là sự lựa chọn đáng ghen tị của Chem và bất cứ ông bố bà mẹ nào có đủ khả năng tài chính gửi con theo học tại đây.
“Nó cũng chẳng tốn hơn học trường công (nơi được học miễn phí)”, Chem – người sở hữu một nhà hàng tại Sisophon – thừa nhận, “Nhưng tôi thích tiếng Trung và muốn con trai mình học ngôn ngữ của họ. Tôi hy vọng một ngày nào đó nó sẽ được đến Trung Quốc.”
Thật khó mà hoài nghi về sự khôn ngoan trong quyết định của Chem, bởi những bệnh viện và phòng mạch tốt nhất tại thành phố này đều do người Trung Quốc điều hành. Tiền bạc của Trung Quốc đã được rót vào cả một số trường ngoại ngữ, nơi không chỉ tiếp nhận một số người Cambodia gốc Hoa, mà còn ngày càng thu hút đông đảo thêm các học sinh Khmer chính gốc.
Lao Mong-hay, một người Cambodia gốc Hoa và nguyên là Giám đốc Viện Dân chủ Khmer tại Phnom Penh, nhận định: “Đó là một hướng đi đặc biệt, nhưng cũng là cách khôi phục truyền thống lâu nay, khi người Hoa cung cấp các dịch vụ cho người Cambodia. Trước đây, các thương nhân Hoa kiều vẫn mua và bán các sản phẩm của nông dân Cambodia”.
Trong ý thức của người Khmer, Trung Quốc có vẻ như là một “Người khổng lồ” xa xôi, nước Lào thì “vô lo”, và cũng vì trong lịch sử chẳng có biến cố chiến tranh, nên trong tâm thức người Khmer chẳng có những tình cảm tiêu cực với người Trung Quốc. Và đa phần sự thù địch chỉ giành cho Việt Nam – quốc gia láng giềng phía Đông của Cambodia.
Nhưng đúng là Trung Quốc đã giữ một vài trò bí hiểm trong quá khứ đau thương của Cambodia. Bắc Kinh từng là người bảo vệ hào phóng và tận tâm cho chế độ Khmer Đỏ của Pol Pot, từ lúc khởi đầu chỉ là một nhóm du kích nổi dậy trong những năm 60, và cho tới suốt 3 năm cầm quyền ghê rợn từ 1975-1978, đã khiến 1/4 dân số Cambodia bị tiêu diệt. Sự hỗ trợ này thậm chí còn được tiếp tục sau khi Khmer Đỏ bị các lực lượng Việt Nam lật đổ năm 1979, nhưng chúng vẫn dai dẳng tồn tại ngoài rìa của một xã hội đã bị tổn thương và hoạt động ở các trại trong rừng rậm dọc biên giới với Thái Lan.
Lo ngại sự mở rộng trên khắp Đông Dương của một nước Việt Nam được Liên Xô hậu thuẫn, Bắc Kinh đã huấn luyện các du kích Khmer Đỏ, cung cấp vũ khí, lương thực, và hỗ trợ kỹ thuật. Theo Lao Mong-hay, nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Ủy ban Nhân quyền châu Á, Trung Quốc đã viện trợ ít nhất 2 tỉ USD cho phong trào này, và phân nửa số này là sau khi quân đội Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ và bằng chứng về chế độ diệt chủng của Pol Pot đã được cả thế giới biết đến.
“Dĩ nhiên chúng tôi hiểu về vai trò của Trung Quốc, nhưng cứ nhắc đi nhắc lại vấn đề đó để làm gì”, Samath Yin – một hướng dẫn viên du lịch ở di tích Anhkor Wat – chất vấn, “Những gì đã xảy ra dưới chế độ Plo Pot chẳng phải hành động của một quốc gia nào, mà chỉ là hành động của một nhà lãnh đạo. Là những người theo đạo Phật, chúng tôi không được phép nghĩ về báo thù, mà chỉ nhắc tới hòa bình.”
Trong suốt mùa du lịch cao điểm, Samath – người rất thạo tiếng phổ thông Trung Quốc – làm hướng dẫn viên cho hàng loạt đoàn du khách Trung Quốc đi thăm di sản thế giới Angkor Wat. Anh ta cho rằng thế hệ người Cambodia trước đây có vẻ rất hiểu các vấn đề của Cambodia, và thương nói tốt về Quốc vương Sihanouk của Cambodia, người vẫn còn có một tư dinh ở Bắc Kinh. Nhưng thế hệ trẻ Cambodia giờ biết quá ít về lịch sử Cambodia, và thậm chí còn ít hơn nữa về vai trò của Trung Quốc trong lịch sử đất nước.
Những cuốn từ điển Trung Quốc đương đại chẳng đề cập tới hai từ “Khmer Đỏ”, thuật ngữ do chính Quốc vương Sihanouk đặt ra để phản ánh đúng phong trào Cộng sản bí mật vốn được khơi cảm hứng và hỗ trợ từ Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông.
Từ trước khi lên nắm quyền năm 1975, Pol Pot từng muốn ganh đua với cuộc cải cách ruộng đất không tưởng của Mao, nhưng đi theo những hướng cực đoan mới. Y lùa sạch dân khỏi Phnom Penh, đuổi tất cả dân thành phố và trí thức vào những công xã và trại cưỡng bức lao động mà về sau đã trở thành những cánh đồng chết. Năm 1975 trở thành “Năm số Không” của đất nước này – điểm đầu cho một giai đoạn man rợ và khởi động cho “nền văn minh” mới.
“Con gái bốn tuổi và ông nội tôi đều thiệt mạng trong các cánh đồng chết”, Theary – người làm công trong tiệm kim hoàn của một ông chủ Trung Quốc ở Siemriep – kể lại, “Cô bé chết vì đói, còn ông nội tôi bị đưa đi hành quyết. Lần đầu tiên khi tôi được xem bộ phim Cánh đồng chết, tôi không thể cầm được nước mắt.”
Liệu Theary có cảm thấy bất an không khi giờ đây cô đang làm việc cho một cửa hàng của người Trung Quốc? Những người dân địa phương còn cho biết thêm rằng chính Trung tâm mua sắm Angkor hiện nay được xây dựng trên nền của một trại tra tấn của Khmer Đỏ tại Siemriep, và rằng hàng đống xương người đã được tìm thấy trong lúc thi công.
“Bà chủ Trung Quốc của tôi đã từng nghe những câu chuyện ma, và trước khi khai trương cửa hàng, bà ấy đã cúng bái rất nhiều cho những người chết”, Theary kể, “Tôi cảm thấy hài lòng về điều đó”.
Không một phương tiện truyền thông chính thức nào tại Trung Quốc từng đưa tin về phiên tòa hiện đang xét xử các cựu thủ lĩnh Khmer Đỏ. Năm nhân vật Khmer Đỏ già nua sẽ bị xét xử về các tội danh giết người và chống lại loài người trong các phiên xét xử được cho là sẽ kéo dài tới năm 2012. Kẻ khét tiếng nhất trong số này, Kaing Guek Eav – còn có biệt danh là Duch – phải chịu trách nhiệm về các vụ tra tấn và sát hại tới 14.000 đàn ông, phụ nữ và trẻ em trong giai đoạn y làm Trưởng trung tâm giam giữ S-21 của Khmer Đỏ tại Phnom Penh.

Sự lầm lẫn

“Thật sai lầm khi tin rằng chính Trung Quốc đã hậu thuẫn cho Khmer Đỏ trong các vấn đề đối nội của họ”, Zhang Xizhen – nhà nghiên cứu Đông Nam Á thuộc khoa Quốc tế trường Đại học Bắc Kinh – nhận xét, “Thủ tướng Chu Ân Lai khi đó đang nằm viện vì ốm, nhưng vẫn cố thuyết phục họ không lặp lại những sai lầm mà Trung Quốc mắc phải trước đây, nhưng họ không lắng nghe”.
“Mặc dù Trung Quốc không thể chấp nhận những gì họ đã làm, nhưng cũng không thể can thiệp trực tiếp vào những chuyện nội bộ của họ”, nhà nghiên cứu Zhang tiếp tục bào chữa cho quá khứ của Trung Quốc. Ông nhấn mạnh rằng Bắc Kinh không có lựa chọn nào khác, ngoài việc hậu thuẫn cho các chính sách đối ngoại của Khmer Đỏ vì họ là “lực lượng duy nhất chống lại sự bành trướng của Việt Nam trên bán đảo Đông Dương”, và điều đó tạo nên một mối đe doạ nghiêm trọng đối với Trung Quốc”.
Nhưng có vô số hồ sơ đã cho biết tường tận rằng trong suốt thời gian Pol Pot cầm quyền tại Cambodia, các cố vấn Trung Quốc – có lẽ khoảng một nghìn người – đã giữ vai trò quan trọng trong nước này. Trớ trêu đến khó tin là họ vẫn đóng vai trò quan trọng ngay cả khi chính sách của chế độ Khmer Đỏ bài xích thiểu số Hoa kiều sống tại Cambodia đã sớm trở thành một cuộc thanh lọc sắc tộc khủng khiếp.

“Người phát ngôn của Bắc Kinh”
Giờ đây, ngay cả khi các phiên tòa xét xử tội ác Khmer Đỏ đang diễn ra tại Phnom Penh, vai trò của Trung Quốc trong quá khứ của Cambodia cũng hầu như không được đề cập đến một chút nào.
“Chính phủ Cambodia không bao giờ đưa ra chuyện Trung Quốc dính líu vào quá khứ nước này”, Chủ tịch Trung tâm nhân quyền Cambodia – Ou Virak nói, “Trung Quốc là nhà đầu tư và tài trợ lớn nhất của chúng tôi, và cũng đứng đầu về số lượng thu nhận các hợp đồng sang nhượng đất đai. Cả hai nước đều muốn dẹp bỏ quá khứ.”
Theo Uỷ ban đầu tư Cambodia, Trung Quốc luôn đứng đầu trong danh sách nước ngoài đầu tư vào Cambodia suốt 14 năm qua, với tổng trị giá lên tới 5,7 tỉ USD vào cuối năm 2007. Bắc Kinh đã hứa bổ sung thêm 257 triệu USD cho Phnom Penh trong năm viện trợ 2009.
Nhưng ông Ou Virak nhận xét rằng sự hào phóng của Trung Quốc chẳng phải là không có những ràng buộc. “Chính quyền Husen giờ đang hành động hệt như người phát ngôn của Bắc Kinh”, Ou Virak nói, “Họ vẫn luôn nhấn mạnh tới vai trò của Mỹ khi viện trợ cho Khmer Đỏ tiếm quyền, vì điều này giúp Trung Quốc ngăn cản Mỹ tiếp cận vào khu vực các nước ASEAN”.
Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam giai đoạn cuối thập kỷ 60 đầu 70, quân đội Mỹ từng ném bom các vùng “Đất Thánh” của Việt Nam trên đất Cambodia, làm hàng nghìn thường dân thiệt mạng. Chính nước Mỹ đã hỗ trợ Khmer Đỏ tập hợp sự ủng hộ dân tộc dưới chiêu bài chiến đấu chống đế quốc ngoại bang, và mở đường cho lực lượng này leo lên nắm quyền lực.
“Cả Trung Quốc và Mỹ đều có lỗi”, Theary Seng – Giám đốc điều hành Trung tâm Phát triển xã hội Cambodia – kết luận, “Cũng chính những người theo chủ nghĩa xét lại về vai trò của Trung Quốc đã tìm cách phủ nhận vai trò của Trung Quốc trong chế độ Khmer Đỏ, vì điều đó trái ngược với những bằng chứng lịch sử”.
Bà Theary Seng cho rằng một lời xin lỗi và một quỹ khôi phụ niềm tin cho các nạn nhân của chế độ Khmer Đỏ có thể là cách thích hợp nhất để Trung Quốc khép lại trang lịch sử và chuộc lỗi bằng vật chất. Bà kết luận: “Tất cả những dự án đầu tư lớn, cùng các khoản viện trợ hào phóng này, đều là tốt, nhưng người Cambodia cần phải nhận thức rằng họ có quyền được hưởng những điều đó.”
* Nguồn:
China Makes Deep Inroads into Cambodia (Antoaneta Bezlova)


Mỹ tăng cường thế bao vây Trung Quốc và biện pháp ứng phó của Bắc Kinh
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Sáu, ngày 24-7-2009
Thời gian gần đây, trước sự điều chỉnh chiến lược quân sự của Mỹ và tình hình diễn biến phức tạp ở Triều Tiên, Afghanistan, Pakistan, Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], có nhiều dư luận cho rằng Mỹ đang tăng cường thế bao vây đối với Trung Quốc. Phản ánh xung quanh vấn đề này, bài viết đăng trên Mạng Tin tức Quốc phòng của Trung Quốc mới đây bình luận:

1. Lý do đòi hỏi Mỹ phải có điều chỉnh chiến lược

Khu vực châu Á-Thái Bình Dương là khu vực có vị trí ngày càng quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc đang đe doạ đến vị trí chiến lược của Mỹ ở khu vực này. Tình hình bán đảo Triều Tiên đang rất căng thẳng trước thái độ cứng rắn của các nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên, đặc biệt là sau khi nước này thử hạt nhân và liên tiếp phóng tên lửa. Tình hình Biển Nam Trung Hoa đang có diễn biến rất phức tạp, tranh chấp giữa các nước xung quanh ngày càng trở nên quyết liệt, nhất là từ sau ngày 13/5/2009, thời hạn các nước đệ trình dự án thềm lục địa ngoài 200 hải lý lên Liên hiệp quốc.
Từ đầu năm 2008 đến nay, Taliban quay trở lại, phát động tấn công quy mô lớn ở khu vực miền Nam Afghanistan, trên thực tế nó đã khống chế rất nhiều khu vực, đã hình thành thế bao vây đối với thủ đô Cabun. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng là ảnh hưởng của Taliban nhanh chóng phục hồi và ngày càng lớn mạnh đối với các khu vực của Afghanistan, phạm vi hoạt động đã vượt qua biên giới kép dài đến nội địa Pakistan. Thế lực của Taliban ở Pakistan cũng phát triển vô cùng mạnh mẽ, Taliban ở Pakistan và Afghanistan đã bắt tay nhau, dẫn đến tình hình an ninh ở khu vực này ngày càng căng thẳng. Ngoài ra, Taliban ở Pakistan không những liên tiếp vượt biên giới tập kích quân đội Mỹ và NATO ở Afghanistan mà còn tăng cường tập kích tuyến cung cấp hậu cần cho quân đội Mỹ và NATO. Sự trỗi dậy của Taliban ở hai nước này cũng tạo môi trường thuận lợi cho Al-Qaeda.
Trong tình hình mạng lưới Al-Qaeda ở Iraq bị tấn công nghiêm trọng, các tổ chức Al-Qaeda ở một số khu vực khác ngoài Iraq và Trung Đông cũng bắt đầu mở rộng hoạt động và cũng đã có một bộ phận đến Afghanistan. Theo số liệu thống kê, năm 2008, thương vong của quân đội Mỹ đóng tại Afghanistan đã tăng lên 35%. Là biểu tượng cho thành quả chống khủng bố của Mỹ, Washington không cho phép Afghanistan sụp đổ. Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, Michael Mullen đặc biệt nhấn mạnh “thành công của Taliban trực tiếp đe doạ an ninh và lợi ích của Mỹ”. Giành thắng lợi trong cuộc chiến Afghanistan vẫn là nhiệm vụ quan trọng cơ bản của Mỹ.
Trước tình hình như vậy, đòi hỏi Mỹ phải có điều chỉnh chiến lược quân sự nhằm bố trí lại lực lượng để thực hiện mục tiêu chiến lược của mình.

2. Điều chỉnh chiến lược của Mỹ đã hình thành vòng vây quân sự xung quanh Trung Quốc
Cùng với việc điều chỉnh chiến lược quân sự, quân đội Mỹ mượn danh nghĩa chống khủng bố để không ngừng gia tăng ảnh hưởng quân sự đối với các nước xung quanh Trung Quốc. Giới truyền thông cho rằng hành động này của quân đội Mỹ là nhằm tiến hành khống chế chiến lược mới đối với Trung Quốc.
Mặc dù tình hình Đài Loan có xu hướng hoà hoãn, ổn định và đã làm giảm áp lực can thiệp quân sự của Mỹ đối với quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, nhưng trước tình hình căng thẳng ở bán đảo Triều Tiên, với danh nghĩa là giữ lời hứa bảo vệ đồng minh Nhật Bản và Hàn Quốc, Mỹ đã tăng cường lực lượng và trang bị phương tiện ở hai nước này để đối phó với Bắc Triều Tiên. Đây cũng chính là cơ hội để Mỹ mở rộng phạm vi ảnh hưởng vào sâu trong trung tâm chiến lược của Trung Quốc ở khu vực Viễn Đông, tức là chuyển từ “phong tỏa chuỗi đảo” đối với Trung Quốc ở khu vực Viên Đông sang “áp chế chiến lược” phạm vi ngày càng lớn đối với Trung Quốc.
Để đối phó với tình hình diễn biến hết sức phức tạp ở Afghanistan, chính quyền Obama đã nhanh chóng đưa ra quyết định rút quân có trật tự tại Iraq và tăng thêm 17.000 quân đến Afghanistan để dần dịch chuyển trọng tâm chiến lược và mặt trận chống khủng bố quốc tế do Mỹ lãnh đạo từ Trung Đông, Tây Á đến Afghanistan và Pakistan. Mục đích chủ yếu của chiến lược mới này là tăng thêm lực lượng ở Afghanistan, ủng hộ và tăng cường tác dụng tấn công quân sự của Pakistan, gia tăng viện trợ phi quân sự và động viên lực lượng quốc tế tham gia đối với Pakistan và Afghanistan, đồng thời tăng cường sự hợp tác với hai nước này.
Có bình luận phân tích kế hoạch chống khủng bố ở Afghanistan và Pakistan của chính quyền Obama không phải là mục đích duy nhất của chiến lược dịch chuyển về phía Đông của Mỹ, mà còn có lợi ích chiến lược địa duyên. Là một siêu cường, việc kiểm soát được Afghanistan là mong muốn của Mỹ nhiều năm nay. Trên cơ sở chiếm lĩnh Afghanistan, để tiến vào Pakistan, từ đó tăng cường sự tồn tại của quân đội Mỹ ở vành đai quan trọng Á-Âu, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, mượn sự điều chỉnh này để khống chế Trung Quốc. Đây là một trong những mục tiêu phức tạp và lâu dài của Mỹ.
Đông Nam Á là khu vực vô cùng quan trọng trong chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ, mặc dù Mỹ tuyên bố không trực tiếp can dự vào tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa, nhưng Mỹ sẽ không bỏ qua quyền lợi của mình ở khu vực biển Nam Trung Hoa. Xuất phát từ mục tiêu chiến lược của mình, Mỹ đã tăng cường đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước ASEAN nhằm duy trì sự có mặt của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á. Trong những năm gần đây, diễn tập quân sự của quân đội Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương không ngừng gia tăng, điều này đánh dấu Mỹ bắt đầu mượn diễn tập quân sự liên tục để từng bước hoàn thiện bố trí chiến lược ở khu vực này. Mỹ cũng đã tiến hành diễn tập quân sự liên hợp với một số nước tại biển Nam Trung Hoa. Ngày 18/6/2009, Mỹ đã tiến hành cuộc diễn tập “CARAT-2009″ với các nước Philippines, Singapore, Bruney, Thái Lan, thời gian dài ba tháng với quy mô chưa từng thấy trong diễn tập hàng năm. Các học giả cho rằng hải quân Mỹ đã cử 4 tàu chiến đến cùng với hải quân 6 nước Đông Nam Á diễn tập liên hợp quân sự là điều chưa từng có trong lịch sử nhằm mục đích thông qua diễn tập tăng cường khả năng tác chiến liên hợp với các nước đồng minh, duy trì quân đội Mỹ ở tiền duyên khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đe doạ đối thủ chiến lược tiềm tàng.
Xuất phát từ mục đích chính trị của các bên, hợp tác quân sự giữa Mỹ và Việt Nam gần đây ngày càng xích lại gần nhau. Theo tin mới nhất mà quân đội Mỹ tiết lộ, mùa Thu năm nay, không quân Mỹ sẽ đến Việt Nam triển khai diễn tập tìm kiếm cứu nạn. Đây là lần đầu tiên không quân Mỹ đến Việt Nam kẻ từ sau khi chiến tranh kết thúc, cũng là lần đầu tiên hành động loại này được thực hiện trong nội địa Việt Nam. Theo nguồn tin trên mạng của chính phủ Mỹ, gần đây Mỹ và Việt Nam đã tiến hành “đối thoại chính trị và quốc phòng an ninh” lần thứ hai tại Washington. Sau hội đàm, hai bên đã ra “tuyên bố chung” nhấn mạnh “sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác, thúc đẩy hoà bình, ổn định và an ninh ở châu Á-Thái Bình Dương”, vấn đề “làm thế nào để tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa quân đội hai nước” cũng được đưa vào trong nghị trình. Đây là điều không thể coi thường.
Theo đánh giá của giới chuyên gia, hiện nay Mỹ đang có nhu cầu thuê lại quân cảng Cam Ranh, nếu trở thành hiện thực, Mỹ sẽ có 3 căn cứ xung quanh biên Nam Trung Hoa, cộng với căn cứ Guam và căn cứ hải quân ở Singapore, hình thành thế bao vây tam giác ở biển Nam Trung Hoa. Mỹ cũng sẽ sớm xây dựng 2 “chuỗi đảo” chiến lược ở Thái Bình Dương, nếu như Mỹ thuê được căn cứ hải quân Cam Ranh của Việt Nam, sẽ góp chặt yết hầu ở biển Nam Trung Hoa. Sức khống chế và khả năng điều động binh lực của căn cứ Cam Ranh đều cao hơn tất cả mọi căn cứ hải quân của Trung Quốc đối với bất cứ một đảo bãi nào ở biển Nam Trung Hoa.
Phía Tây Bắc Trung Quốc, NATO cũng đã có mặt. Trong tháng 5/2009, NATO đã tiến hành diễn tập quân sự tại Grudia. Các nhà bình luận quân sự quốc tế cho rằng mặc dù các cuộc diễn tập quân sự này là của NATO, nhưng các nước chủ yếu của NATO như Đức, Pháp, Italia không tham gia. Ngược lại, các nước tham gia diễn tập, đại bộ phận là các nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây như Grudia, Ukraina, còn có một bộ phận là của các nước khối Warsava trước đây như Hungari, Séc. NATO mở rộng về phía Đông, không những mở đến cửa ngõ nước Nga, mà còn mở rộng đến cửa ngõ Trung Quốc. Ngoài ra, ở Đông Nam Á còn có “bóng dáng của NATO”, đó là đồng mình quân sự Mỹ-Nhật-Hàn, hiện nay còn có thêm Austraylia, Ấn Độ.
Như vậy, điều chỉnh chiến lược của Mỹ đã hình thành thế bao vây đối với Trung Quốc, vòng vây “hình mặt trăng mới” mà Mỹ xây dựng hình như không giảm, mà ngày càng thắt chặt, hiện chỉ còn thiếu mỗi khu vực phía Bắc của Trung Quốc.

3. Trung Quốc ứng phó với điều chỉnh chiến lược của Mỹ
Giới học giả Trung Quốc cho rằng bất kể ý đồ chiến lược của Mỹ như thế nào, nhưng cuối cùng khu vực điểm nóng nhạy cảm toàn cầu hiện đã xuất hiện hòa hoãn xung đột quân sự và cân bằng chiến lược tạm thời. Trung Quốc nên dựa theo thời thế, nắm chắc cơ hội để thực hiện mục tiêu chiến lược trỗi dậy hòa bình, tranh thủ điều chỉnh bố trí chiến lược của Mỹ, tích cực tiến hành ứng phó chiến lược toàn diện, xây dựng nước giàu quân mạnh. Chủ yếu chú ý tới một số mặt chiến lược sau:
- Lợi dụng thái độ của Mỹ yêu cầu Trung Quốc cứu trợ kinh tế, lấy chiến lược “thực lực kinh tế khôn khéo” để ứng phó với “thực lực ngoại giao khôn khéo” của Mỹ, lấy Hội nghị thượng đỉnh G20 và chấn chỉnh lại IMF làm đột phá khẩu, tranh thủ mở rộng quyền được tuyên bố của Trung Quốc trong các vấn đề kinh tế quốc tế, nhanh chóng mở rộng ảnh hưởng của đồng nhân dân tệ ở Đông Nam Á, dẫn đến có sức ảnh hưởng quốc tế, đẩy nhanh tiến trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ. Lấy thực lực kinh tế mạnh mẽ để xây dựng và củng cố hệ thống quốc phòng, an ninh ổn định vững chắc.
- Đẩy nhanh tiến trình phát triển hòa bình và thống nhất Đại Trung Hoa đối với hai bờ eo biển Đài Loan. Tăng cường toàn diện hiệp thương, lôi kéo và hợp tác giữa Hiệp hội quan hệ hai bờ và Quỹ giao lưu hai bờ, hợp tác và hội nhập quốc tế, từng bước thúc đẩy sự tin cậy lẫn nhau, hiệp thương và hợp tác chính trị, quân sự giữa hai bờ eo biển Đài Loan. Chú trọng tới trỗi dậy hòa bình của Đại Trung Hoa, liên hợp xây dựng hệ thống phòng ngự quân sự ở biển Hoa Đông và Viễn Đông lớn mạnh, để làm suy yếu khả năng đe doạ và quẫy nhiễm quân sự của Mỹ-Nhật ở khu vực Viên Đông.
- Tăng cường và làm sâu sắc hơn hợp tác chống khủng bố của Trung Quốc, Nga, Tổ chức hợp tác Thượng Hải tại Afghanistan. Ngăn chặn tác động và ảnh hưởng quân sự của Mỹ ở khu vực, hỗ trợ cho việc hình thành thế cân bằng chiến lược mới và tăng cường ngăn chặn sự quấy phá và mở rộng của thế lực “Đông Thổ” để có lợi cho hòa bình và ổn định ở khu vực này. Đồng thời phải đẩy nhanh việc xây dựng đường ống dẫn dầu chiến lược từ Myanma đến Vân Nam.
- Sớm tăng cường xây dựng chiến lược hiện đại hóa lực lượng quân sự và hệ thống phòng ngự quân sự lớn mạnh trên biển để tăng cường quyền khống chế trên biển. Phải phát huy sức ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các nước ASEAN, đưa các nước có liên quan trở lại khuôn khổ nguyên tắc “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”, để ràng buộc hành vi của các nước này. Đồng thời phải tập trung phát triển lực lượng phòng vệ quân sự biển xa hùng mạnh, nhanh chóng thu hồi lãnh thổ bị chiếm đóng và bảo vệ vững chắc an ninh quốc phòng trên vùng biển rộng lớn của Trung Quốc.


No comments:

Post a Comment