Nỗi đau dân chủ
Phạm Đinh Trọng
Đăng ngày 01/01/2009 lúc 01:01:22 EST
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3413
2. NHỮNG THẢM HOẠ DÂN CHỦ
Thắng lợi vang dội của lực lượng kháng chiến trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, quân Pháp bị đánh tan tác phải rút chạy khỏi đường số Bốn, một dải biên giới Việt – Trung được giải phóng, mở toang cánh cửa thông sang nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vừa ra đời. Lập tức từ hai nước, tấp nập những đoàn người qua lại biên giới. Những đoàn học sinh, thiếu sinh quân Việt Nam sang Trung Hoa mượn đất mở trường. Những đoàn cán bộ Việt Nam mượn đường Trung Hoa đi ra thế giới. Những đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam sang Trung Hoa huấn luyện rồi mang súng đạn của Trung Hoa viện trợ trở về. Những đoàn cố vấn Trung Hoa từ Hoa Nam mang tư tưởng Mao Trạch Đông dập dìu kéo sang Việt Bắc . . . Trưởng đoàn cố vấn về tư tưởng, đường lối, chính sách là Ngải Tu Kỳ. Trưởng đoàn cố vấn quân sự là Vi Quốc Thanh.
Biên giới Việt – Trung mở ra thông thoáng nhưng từ đây, những người cách mạng Việt Nam đã phải nhận lấy cái đai kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông thít lên đầu. Hai đai kim cô thắt chặt nhất là đai kim cô quân sự và đai kim cô tư tưởng, đường lối chính sách. Lĩnh vực nào thoát được đai kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông thì sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lĩnh vực nào không thoát được thì sẽ đi từ thảm hoạ này đến thảm hoạ khác!
Quân đội cách mạng thời kháng chiến chống Pháp được gọi là những người nông dân mặc áo lính. Những người lính ấy phần lớn đều không có quãng đời đi học. Một số người thoát mù chữ nhờ phong trào bình dân học vụ ở địa phương và phong trào xoá mù chữ ở ngay trong các đon vị quân đội. Trên mặt bằng văn hoá và hiểu biết xã hội đó thì số ít thanh niên ở tầng lớp trên được học hành đầy đủ và số ít người từng là chỉ huy đội quân bản địa của Pháp, được Pháp huấn luyện, đao tạo nhưng trái tim yêu nước đã đưa họ đến với cách mạng. Với kiến thức văn hoá và kiến thức quân sự quí hiếm đó, họ đã có đóng góp rất to lớn trong việc xây dựng quân đội cách mạng từ buổi đầu, từ số không, trở thành đội quân tinh nhuệ, càng đánh càng lớn mạnh, đã làm nên những chiến thắng đi vào sử sách và họ đã trở thành những cán bộ chủ chốt, trở thành những tài sản quí hiếm của quân đội, của cách mạng.
Cố vấn quân sự Tàu đến đưa ra chuẩn mực đầu tiên và quyết định việc đề bạt, sử dụng cán bộ phải có thành phần xuất thân công nông. Một loạt xáo trộn từ cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh tới các đơn vị. Những trí thức và nhà quân sự chuyên nghiệp đã trở thành những người cầm quân tài năng của quân đội nhân dân Việt Nam tất nhiên đều không có thành phần xuất thân công nông, đều bị gạt ra một bên, nhường chỗ cho những cán bộ công nông. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuất thân từ đội quân bản địa của Pháp phải nhường chức cho Văn Tiến Dũng, sư đoàn trưởng sư đoàn 320, xuất thân từ nông dân!
Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt chỉ huy trung đoàn đánh tan đạo quân do những trung tá, đại tá Pháp chỉ huy trên đường số Bốn từ giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1950. Nhưng người cầm quân tài năng được sử sách quân sự cách mạng gọi là Hùm Xám Đường Số Bốn lại là con quan thượng thư triều đình Huế và ông quan đại thần của chế độ phong kiến ấy đã bị đấu tố, giam cầm đến chết trong cải cách ruộng đất, và bản thân Đặng Văn Việt cũng là trí thức, là sinh viên trường Đại học Y khoa Hà Nội xếp bút nghiên tham gia đánh giặc. Thành phần gia đinh và bản thân đều không thể tin cậy, nên Đặng Văn Việt mãi mãi dừng lại ở đường số Bốn dù ông đã rong ruổi trên mọi nẻo đường chiến trận trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Là trung đoàn trưởng từ năm 1950 nên khi có chế độ phong quân hàm, năm 1958, người ta phải phong cho ông quân hàm cấp tá nhưng ông chỉ là cái bóng, là phụ tá của người chỉ huy công nông, không ai cho ông đứng đầu đơn vị! Không ai cho ông cầm quân chỉ huy! Không ai cho ông có quyền quyết định! Trong khi những người lính bình thường của Đặng Văn Việt có thành phần xuất thân công nông, nhiều người lên cấp tướng! Trong khi những cán bộ cùng lứa với Đặng Văn Việt và ở cấp thấp hơn lên đến thượng tướng, đại tướng thì Đặng Văn Việt mãi mãi dừng lại với quân hàm cấp tá!
Cám cảnh hơn là cuộc đời trong quân ngũ của một trí thức đã xây dựng cho quân đội cách mạng cả ngành bản đồ quân sự. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Đông Dương, chuyên khoa bản đồ, Nguyễn Bá Đạm đã đi khắp ba nước Đông Dương lập bản đồ bán đảo Đông Dương. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra, người công chức bản đồ ấy hăng hái gia nhập quân đội cách mạng và mang toàn bộ vốn liếng kiến thức về bản đồ xây dựng lên ngành bản đồ của quân đội cách mạng. Xuất thân là công chức của Pháp, ông phải dừng lại ở quân hàm đại uý gần hai mươi năm! Cho đến lúc về hưu, ngoài sáu mươi tuổi, hơn ba mươi năm trong quân ngũ, ông chỉ có quân hàm thiếu tá! Trong khi những người lính công nông được ông đao tạo trở thành người phụ trách ông và đều có quân hàm đại tá!
Điều canh cánh lớn nhất của người trí thức là được đóng góp, được làm việc hết mình. Người trí thức cần được đóng góp hơn là cần được đãi ngộ. Để được đóng góp, được làm việc hết mình thì phải có vị trí tương xứng với năng lực. Có năng lực mà không được tin cậy sử dụng, không được làm việc hết mình, đó là bi kịch của trí thức! Đặng Văn Việt, Nguyễn Bá Đạm đều mang bi kịch ấy! Buồn tình, Nguyễn Bá Đạm mang kiến thức văn hoá và vốn sống những năm tháng rong ruổi của mình gửi vào văn chương. Khi viết văn ông mang tên vợ là Lê Khánh và nhà văn Lê Khánh, hội viên hội Nhà Văn Việt Nam, đã ba lần giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn của báo Văn Nghệ và tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, tự học tiếng Nga, ông đã dịch nhiều sách văn học Xô Viết ra tiếng Việt. Tôi có may mắn được quen biết ông từ khi ông còn mang quân hàm đại uý. Ông là đại uý cục Bản đồ, bộ Tống Tham mưu còn tôi là hạ sĩ báo vụ ở tổng trạm thông tin vô tuyến điện của Bộ Tổng Tư lệnh. Trước ngày 29. 6.1966, ngày Mĩ cho máy bay vào đánh phá kho xăng Đức Giang ở Gia Lâm, Hà Nội còn bình yên, chiều chiều tôi và ông thường gặp nhau chia quân đá bóng trên sân vận động Cột Cờ. Trước năm 1975, ở cơ quan Bộ Tổng Tu lệnh có rất nhiều sĩ quan mang một quân hàm lưu cữu hàng chục năm. Ngôn ngữ lính tráng gọi những quân hàm lâu năm không thay đổi ấy là quân hàm i nốc! Đại uý Nguyễn Bá Đạm là “đại uý i nốc”! Còn nhà văn Lê Khánh là nhà văn tài hoa!
Thực hiện chính sách cán bộ của cố vấn Tàu, chấp nhận bi kịch với cá nhân, những người cầm quân tài năng, những người có năng lực chuyên môn không được đặt đúng vị trí, không được thi thố, đóng góp hết tài năng, không được nhìn nhận xứng đáng, thôi, cũng đanh chấp nhận! Nhưng khi cố vấn quân sự Tàu đưa ra cách đánh đòi hỏi hi sinh nhiều xương máu không đáng phải hi sinh, không phù hợp với một dân tộc dân số không đông, dẫn đến bi kịch cho cả dân tộc thì người đứng đầu quân đội cách mạng Việt Nam đã không thể nhắm mắt chấp nhận.
Chúng ta mở chiến dịch Điện Biên Phủ, cố vấn quân sự Tàu bảo phải tập trung quân số lớn, đánh nhanh thắng nhanh! Hoả lực pháo binh từ trên cao dập xuống! Quân đông từ núi cao tràn xuống, lấy số nhiều áp đảo số ít sẽ nhanh chóng nghiền nát quân Pháp cố thủ dưới lòng chảo Điện Biên Phủ! Như quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa vừa ầm ầm vượt sông Áp Lục đuổi quân Mĩ xuống tận vi tuyến 38 ở Triều Tiên. Cố vấn Tàu kè bên và ý đồ của cố vấn Tàu được triển khai. Những đại đoàn bộ binh đã dồn quân quanh Điện Biên Phủ. Những trung đoàn pháo binh, tay kéo, vai đẩy, chân ghì đã kéo pháo vượt qua những dãy núi cheo leo vào trận địa. Chỉ còn đợi giờ G nổ súng! Nhưng lấy ý chí chọi lửa đạn, lấy thân người bịt hoả điểm có phải là cách đánh phù hợp với Việt Nam? Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm dày đặc hoả điểm thì phải tốn bao nhiêu mạng người cho đủ? Người Pháp tập trung quân tinh nhuệ xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm kiên cố làm chỗ dựa cho chính quyền châu bản nguỵ ở Tây Bắc, làm điểm xuất phát cho những đơn vị biệt kích Pháp và lính nguỵ Thái đánh phá sự bình yên của núi rừng Tây Bắc, là nỗi đe doạ kề sát cơ quan đầu não kháng chiến Việt Bắc, buộc chính phủ kháng chiến phải tập trung quân thanh toán nỗi đe doạ đó. Đó là ý đồ, là tính toán của Pháp. Pháp đã giăng cái bẫy Điện Biên Phủ ra chờ lực lượng kháng chiến. Hùng hổ lấy số đông cố giải quyết cho xong Điện Biên Phủ là sập cái bẫy đó! Điện Biên Phủ sẽ là cối xay thịt với lực lượng kháng chiến, là điểm quyết chiến quyết định số phận lực lượng kháng chiến và cũng là canh bạc cuối cùng của người Pháp! Không thể lấy ý chí thắng bom đạn! Không thể lấy thân xác bộ đội lấp đầy thung lũng Điện Biên Phủ! Đánh nhanh chỉ thương vong lớn, thất bại nhanh chứ không thể thắng nhanh! Dân tộc ta nhỏ đâu có nhiều người để thực hiện chiến thuật biển người! Phải có cách đánh tiết kiệm xương máu, đánh chắc, tiến chắc, ít thương vong mới chắc thắng! Một chiến thuật quân sự Việt Nam hiện đại ra đời từ Điện Biên Phủ: Đánh vây lấn! Bao vây không cho giặc chạy thoát! Đào hào lấn vào diệt dần từng cứ điểm, gỡ dần từng mảnh giáp, bóc dần từng lớp vỏ cứng của tập đoàn cứ điểm hùng mạnh Điện Biên Phủ!
Tiếp nhận vũ khí viện trợ của Trung Hoa nhưng đủ bản lĩnh và tỉnh táo không chấp nhận cách đánh không phù hợp của cố vấn quân sự Trung Hoa, chúng ta mới có chiến thắng Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ là bài học quí giá về tính độc lập dân tộc, là lời gióng giả cảnh báo phải rũ bỏ vòng kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông thít trên đầu, cách mạng Việt Nam mới tránh được những thảm hoạ xương máu, mới tránh được những lỗi lầm đau xót với nhân dân, với lịch sử, đất nước mới thực sự độc lập và phát triển. Nhưng bài học ấy không phải ai cũng nhận ra, lời cảnh báo gióng giả ấy không phải ai cũng nghe thấy! Không thoát khỏi vòng kim cô tu tưởng Mao Trạch Đông, đánh mất tư thế làm chủ, giao vai trò chủ thể cho cố vấn Trung Hoa, răm rắp phục tùng tư tưởng chỉ đạo của nước lớn Trung Hoa, nhắm mắt làm theo bài bản cách mạng vô sản Trung Hoa, lập tức những thảm hoạ liên tiếp giáng xuống nhân dân ta, giáng xuống đất nước ta và thảm hoạ đầu tiên là thảm hoạ cải cách ruộng đất!
Ở nước Trung Hoa phong kiến rất điển hình, ruộng đất tích tụ rất lớn trong tay chủ đất. Thiên nhiên lại khắc nghiệt, hết hạn hán lại lũ lụt. Mất mùa thường xuyên xảy ra. Lịch sử Trung Hoa là lịch sử của những cuộc nội chiến triền miên. Tiếng ngựa hí, tiếng gươm đao loảng xoảng không lúc nào dứt trong lịch sử. Đất nước mênh mông bị những ông vua cát cứ chia cắt, ông vua nào cũng đầy tham vọng bá quyền. Những cuộc chinh phạt thôn tính nhau để thâu tóm thiên hạ kéo dài từ thời cổ đại đến tận thời Cộng sản – Quốc dân đảng hiện đại. Tất cả những tai hoạ của trời đất, của cường quyền, của chiến tranh đều trút xuống đầu người nông dân Trung Hoa khốn khổ. Số đông nông dân nghèo đói, cùng quẫn, cách biệt giai cấp nông dân – địa chủ rất sâu sắc. Dòng người nông dân Trung Hoa đói khổ phải tứ tán khắp thế giới kiếm sống kéo dài trong lịch sử từ xa xưa đến tận hôm nay!
Cách biệt giai cấp ở nông thôn Việt Nam không quá lớn và không quá nặng nề, có khi không rõ ràng. Thời cải cách ruộng đất dân số nước ta mới trên hai mươi nhăm triệu người, chưa đến một phần ba hiện nay. Người ít. Đất đai màu mỡ. Thời tiết nhiệt đới hai mùa mưa nắng rất thuận với nghề nông và đặc biệt rất phù hợp với cây lúa nước. Nông dân Việt Nam, người chủ nền văn minh lúa nước với kho kinh nghiệm trồng trọt cấy hái rất chủ động trên đồng ruộng. Người làm ruộng chăm chỉ, có đầu óc, có ki năng đều là trung nông, có cuộc sống no đủ: Bởi anh chăm việc canh nông / Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài / Ngày mùa tưới ruộng, trồng khoai / Ngày ba tháng tám nằm dài mà ăn (Ca dao). Thóc “bồ trong bịch ngoài” để “ngày ba tháng tám năm dài mà ăn”, đó là mức sống của số đông người làm ruộng biết làm ăn ở những vùng đồng bằng trù phú. Tự tạo ra cuộc sống đủ ăn, không bóc lột ai, họ là trung nông. Nhưng với ruộng đất của họ, với cuộc sống thong dong của họ, nếu khắt khe có thể đưa họ lên hàng địa chủ cũng được. Ở Việt Nam giữa số đông nông dân là trung nông với số ít địa chủ thực sự, khoảng cách rất mong manh. Chính khoảng cách mong manh đó là khoảng cách tai hoạ, là không gian quyền uy của đội cải cách ruộng đất, thương thì để ở thành phần trung nông, đố kị, thù ghét thì đôn lên địa chủ, lôi ra đấu tố cho biết mặt!
Trung nông là số đông, là thành phần ưu tú tiêu biểu của nông dân Việt Nam. Toàn bộ kho tàng tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam đều nói về đời sống lao động và đời sống tâm hồn của tầng lớp trung nông này và chính tầng lớp trung nông là những người sáng tạo ra kho tàng quí giá, đồ sộ đó. Bằng ca dao, tục ngữ, chính tầng lớp trung nông biết làm ăn đã đúc kết, rút ra bài học cho mọi công việc đồng áng: Mạ chiêm đao sâu chôn chặt / Mạ mùa vừa đặt vừa đi. Hoặc: Bao giờ đom đóm bay ra / Hoa gạo rụng xuống thì ta tra vừng... Rồi dự báo mưa nắng để chủ động công việc đồng áng: Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa. Dự báo cả bất thường của thời tiết để chủ động phòng tránh thiệt hại: Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão... Những người giỏi giang ấy làm sao có thể nghèo khổ! Chính tầng lớp trung nông Việt Nam đã tạo nên sự bình yên, bền vững của làng quê Việt Nam qua mọi bão táp lịch sử. Chính tầng lớp trung nông Việt Nam đã tạo nên vẻ đẹp văn hoá làng quê Việt Nam, tạo ra kho tàng văn hoá dân gian, tạo ra cốt cách, phẩm chất, bản lĩnh con người Việt Nam. Chỉ có số ít người không biết làm ăn, hoặc gặp biến cố, tai hoạ bất thường, hoặc sa vào tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, điếm đang thành tay trắng, phải đi làm thuê, ở đợ, bị phụ thuộc, bị bóc lột, bị gạt ra bên lề, không có vai trò gì trong cuộc sống. Những người này thường mù chữ hoặc chỉ đủ chữ kí được cái tên của mình! Đó là những người không bình thường, những thân phận thất bại thê thảm trong cuộc sống, trong lòng luôn chứa chất nỗi hằn học, đố kị với cuộc đời!
Như vậy, dù cùng phương thức sản xuất châu Á, cùng chế độ phong kiến và cùng nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu nhung sự phân biệt giai cấp ở nông thôn Việt Nam có nhiều khác biệt với nông thôn Trung Hoa. Đối kháng giai cấp ở nông thôn Việt Nam cũng không dữ dội, quyết liệt nhu đối kháng giai cấp ở nông thôn Trung Hoa. Đến con người nông dân Việt Nam lại càng khác con người nông dân Trung Hoa. Lịch sử Trung Hoa là lịch sử nội chiến. Những cuộc chiến tranh tương tàn chém giết lẫn nhau giữa những người cùng nòi giống kéo dài trong lịch sử! Đất rộng sông dài chỗ nào cũng là bãi chiến trường của những cuộc chinh phạt giữa những quốc gia cát cứ Ngô, Sở, Hán, Tần, Tề, Lỗ...! Noi nào cũng đầu roi, máu chảy! Thời nào thân phận con người cũng nhỏ bé nhu con giun, con dế! Con người muốn tồn tại, muốn khẳng định phải sát phạt đồng loại. Lịch sử ấy hun đúc nên con người sắt máu, hận thù! Người đan bà trong lịch sử Trung Hoa cũng là Đát Kỉ, là Từ Hi Thái Hậu ôm mộng bá quyền, khuấy đảo cung đinh, ra uy bằng chém giết để thâu tóm quyền lực! Hoàn toàn khác với những người đàn bà trong lịch sử Việt Nam là những người anh hùng đánh giặc cứu nước như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh, Bùi Thị Xuân... Những người đan bà Việt Nam trong nội trướng cũng một lòng vì dân vì nước như nguyên phi Ỷ Lan, vua đi đánh giặc xa, thay vua giữ yên triều chính, như công chúa Huyền Trân, đổi thân mình lấy đất đai, mở rộng bờ cõi Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử giữ nước trước sự thôn tính của những đế quốc khổng lồ. Một dân tộc bé nhỏ muốn tồn tại và giữ được nước phải đoàn kết dân tộc, gắn kết lại với nhau bằng tình thương yêu đùm bọc. Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con. Năm mươi con theo Mẹ lên núi thành người Thái, người Tày... Năm mươi con theo Cha xuống đồng bằng, tiến ra biển thành người Kinh. Truyền thuyết đó là lời lí giải về cội rễ sâu xa của tình thương yêu đùm bọc của người Việt, là lời nhắc nhở tha thiết về sự cần thiết đoàn kết dân tộc. Lịch sử Việt Nam là lịch sử đoàn kết dân tộc. Con người Việt Nam là con người yêu thương, đùm bọc. Lá lành đùm lá rách. Người khá giả đùm bọc, chia sẻ với người nghèo khổ, túng thiếu. Bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhung chung một giàn. Người Việt dù là người Kinh, người Thượng, dù là người Việt gốc Chăm hay người Việt gốc Khơ Me, dù khác tộc, khác tông, khác giống nhung cùng sinh sống trên dải đất Việt Nam đều phải hết lòng thương yêu đùm bọc nhau giữ gìn độc lập của Tổ quốc Việt Nam, giữ gìn sự bình yên của đất nước Việt Nam.
Xã hội và con người nông dân Việt Nam và Trung Hoa khác biệt như vậy, khác biệt từ hoàn cảnh lịch sử đến bản chất mối quan hệ xã hội, khác biệt từ đời sống tâm hồn con người đến thế ứng xử xã hội! Nhưng cải cách ruộng đất ở Việt Nam đã rập khuôn theo bài bản cuộc thổ cải của Trung Hoa, răm rắp làm theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Hoa. Đưa cuộc đấu tranh giai cấp bạo liệt một mất một còn vào trong lòng một dân tộc chỉ có thể tồn tại bằng thương yêu đùm bọc nhau! Vạch chiến tuyến đấu tranh giai cấp sắt máu giữa làng quê đã xơ xác vì chiến tranh bom đạn, đã dốc kiệt sức người sức của vào cuộc kháng chiến giữ nước! Đẩy một bộ phận nông dân lương thiện làm ăn chân chính đã có đóng góp to lớn cho đất nước, cho cách mạng trở thành kẻ thù của cách mạng, kẻ thù của cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt! Đưa những người thất bại trong cuộc sống, những người nuôi bản thân không nổi trở thành người điều hành cuộc sống của cả làng quê!
Trung nông, thành phần ưu tú, tiêu biểu của nông dân Việt Nam, những người tạo nên sự bền vững, bình yên của làng quê Việt Nam, những người tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam, tạo nên sức sống bền bỉ Việt Nam thì không được tin cậy! Càng nghèo khổ, càng thất bại trong cuộc sống càng được tin cậy! Đội cải cách về làng cố tìm cho ra những người nghèo khổ nhất, thất cơ lỡ vận nhất, hèn kém nhất để bắt rễ, xâu chuỗi, đưa lên làm cốt cán. Đội cải cách cùng cốt cán nắm quyền sinh quyền sát ở làng xã: Điều hành cuộc sống làm ăn. Xác định thành phần giai cấp từng gia đinh. Phải xác định đủ số lượng địa chủ theo tỉ lệ dân số mà cố vấn Tàu đã quy định. Phân chia tài sản, ruộng đất tịch thu của địa chủ. Đội cải cách cùng cốt cán lại có vai trò định đoạt những bản án cho những phiên toà xét xử địa chủ. Những phiên toà đó không bị chi phối bởi luật pháp vì chưa có luật và cũng không cần đến luật! Chỉ bị chi phối bởi không khí hừng hực của cuộc thanh toán giai cấp do đội cải cách phát động và bị chi phối bởi cảm tính của những người định đoạt bản án. Đội cải cách ruộng đất là người ở noi khác đến, phần cảm tính không lớn nhung cốt cán là người tại chỗ, vốn là người thất bại trong cuộc sống, đang chứa chất hằn học với cuộc đời, đang dồn nén sự đố kị với người khá giả thì đây là cơ hội để trút nỗi hằn học, để xả sự đố kị bằng việc nống những người có chút của cải lên thành địa chủ và ra những bản án nặng nề nhất cho những người bị đố kị, bị hằn học nhất! Thảm hoạ đến từ đó! Làng quê đang bình lặng bỗng nháo nhác như có dịch bệnh! Người nông dân hiền lành đến nhút nhát bỗng chồm chồm nhảy dựng lên như nhập đồng trong những cuộc đấu tố địa chủ để lập công với đội cải cách. Cuộc sống đang yên ổn bỗng tai ương ập xuống nhiều gia đinh. Hôm trước còn là người nông dân đầu tắt mặt tối, lao động cần cù, lương thiện, tạo được cuộc sống ổn định, được làng xóm nể trọng, lại có con trai đi bộ đội đánh quân Pháp xâm lược, là gia đinh vẻ vang có công với nước. Hôm sau bỗng thành địa chủ bị điệu ra đứng trước cuộc đấu tố của dân làng! Hôm trước còn là gia đinh yên ấm, con dâu sống hoà thuận với bố mẹ chồng. Hôm sau, trong cuộc đấu tố địa chủ, con dâu bỗng nhảy thách lên tố bố chồng cưỡng hiếp!
Bạn tôi, nhà tho LĐC là con rể vị chính uỷ nổi tiếng của quân chủng lừng lẫy chiến công trong cuộc chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc của không quân Mĩ. Vợ chồng anh ở chung nhà với bố mẹ vợ trong khu gia đinh quân đội, cạnh nhà vị tướng tư lệnh quân chủng. Có lần vui chuyện anh nói với chúng tôi về nỗi cô đơn của vị tướng tư lệnh khi ông phải sống âm thầm suốt cuộc đời bên người vợ già không con cái vì bà chính là người con dâu trong cải cách ruộng đất đã vu cho bố chồng tội cưỡng hiếp bà! Ông bố địa chủ của anh bộ đội đi kháng chiến chống Pháp may mắn không bị xử bắn, song tình cảm vợ chồng của anh đã bị xử bắn rồi! Tình cảm vợ chồng không còn nữa nhưng người vợ có tinh thần cách mạng triệt để, có giác ngộ giai cấp và tinh thần đấu tranh giai cấp cao như thế thì anh bộ đội cách mạng không thể li hôn được. Và họ cứ phải âm thầm sống bên nhau suốt đời!
Sau những cuộc đấu tố địa chủ như những màn kịch cương dưới bàn tay đạo diễn của đội cải cách ruộng đất là những phiên toà chóng vánh, đơn giản và những trường bắn thi hành án được dựng lên ngay trên cánh đồng làng. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ quang cảnh cánh đồng làng Đông Khê ngoại thành Hải Phòng trong cuộc đấu tố địa chủ Trần Đức Đai. Lũ học trò lít nhít tiểu học chúng tôi trong thành phố ở ngõ Cấm gần Đông Khê cũng được huy động đi dự làm áp lực của số đông quần chúng cách mạng. Những người nông dân quần nâu áo vá và những người dân thành thị quần áo xanh lam lũ ngồi thành từng khối trên cánh đồng mùa khô sau vụ gặt cuối năm. Từng đợt, từng đợt biển người ầm ầm chuyển động trong tiếng hô Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đả đảo giai cấp địa chủ áp bức bóc lột nông dân! . . . Đối mặt với những đợt sóng sôi sục căm thù đó, địa chủ Trần Đức Đai đứng gục mặt cơ rúm lại. Một bà mặc váy đen, áo nâu vá chằng vá đụp xăm xăm đến trước mặt địa chủ Trần Đức Đai, quát: Đai! Mày có biết tao là ai không? Địa chủ Đai khoanh tay trước ngực chỉ hơi nghiêng mặt ngước lên rồi lại cúi gục xuống, Mĩệng mấp máy chưa thành tiếng thì một thanh niên quần áo nâu ở hàng trên cùng khối quần chúng cách mạng liền bật đứng lên thét: Đả đảo địa chủ cường hào gian ác Trần Đức Đai! Biển người gầm theo: Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo! Mỗi lần bắt đầu kể một tội, bà mặc váy đen lại nhảy chồm lên, tay xỉa xói trước mặt địa chủ Đai, hỏi: Đai, mày có nhớ tội . . . Người thanh niên giữ nhịp làn sóng quần chúng cách mạng lại thét: Đả đảo địa chủ cường hào gian ác Trần Đức Đai! Con sóng quần chúng cách mạng lại gầm lên: Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo! Cuộc đấu tố rất bài bản! Khí thế rất sôi sục! Sức mạnh cách mạng đầy áp đảo! Địa chủ dù không có tội cũng không thể cãi! Hôm xử bắn địa chủ Đai lũ trẻ con chúng tôi không được đi dự. Tôi chỉ được nghe người ta nói với nhau rằng bức tường đất trường bắn được đắp lên ngay trên cánh đồng làng Đông Khê.
Bài bản đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất sau này còn được áp dụng rất thành công trong cuộc đấu tố Nhân Văn-Giai Phẩm, trong cuộc đấu tố, truy bức những đảng viên trung kiên, mẫn cảm trong vụ việc được gọi là vụ Xét lại chống đảng, trong cuộc đấu tố loại bỏ những tiếng nói trung thực vạch ra những việc làm sai trái của người có chức có quyền trong các cơ quan nhà nước và cả trong cuộc đấu tố những người có chính kiến khác với chính thống hiện nay!
Năm 1976, cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa kết thúc, những người lính cầm bút chúng tôi từ khắp các quân đoàn, quân khu, quân chủng, binh chủng được Tổng cục Chính trị tập trung về Hà Nội. Trung uý Hữu Thỉnh, Thiếu uý Chu Lai. Chuẩn uý Nguyễn Khắc Trường. Thiếu uý Phạm Đinh Trọng. Hạ sĩ Trần Đăng Khoa . . . Hơn hai mươi nhà văn quân đội, mỗi người ở nửa gian trong dãy nhà dài ở Vân Hồ do Tổng cục Chính trị mới xây để đón chúng tôi. Cùng với những chiến thắng đã đi vào sử sách thì thành quả cuộc chiến tranh chống Mĩ còn là tạo nên lớp nhà văn chiến sĩ chúng tôi, cũng nhu cuộc kháng chiến chống Pháp tạo nên lứa nhà văn Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc . . . vì thế hồi đó chúng tôi rất được quan tâm. Tìm đến Vân Hồ thăm nom chúng tôi có từ vị tướng, thượng tướng Đàm Quang Trung đến các nhà văn lứa đầu của cách mạng Nguyễn Đinh Thi, Nguyễn Xuân Sanh, Kim Lân . . .Còn những nhà văn dân sự cùng lứa chống Mĩ thì coi Vân Hồ như chốn đi về thường xuyên của họ. Trong một lần la cà với chúng tôi, một nhà văn từng trải, biết nhiều và hay chuyện đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về bà Nguyễn Thị Năm, một chủ đồn điền ở Thái Nguyên. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Chính phủ kháng chiến chỉ có ít vàng có được từ sự quyên góp của dân trong tuần lễ vàng nhưng không có một hạt gạo nuôi quân. Bà Nguyễn Thị Năm đã bỏ tiền riêng ra đong gạo nuôi hàng trung đoàn Vệ quốc quân ròng rã hàng năm trời, rồi mua cả vải may quần áo cho cán bộ chiến sĩ. Người chiến sĩ Vệ quốc quân đi về trang trại của bà Nguyễn Thị Năm như đi về nhà mẹ ruột của mình. Bà Nguyễn Thị Năm thực sự là người Mẹ chiến sĩ đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một người Mẹ có công lao to lớn đối với cách mạng. Đất căn cứ cách mạng Thái Nguyên lại là nơi thực hiện cải cách ruộng đất đầu tiên, từ đầu năm 1954. Bà Nguyễn Thị Năm lại là người đầu tiên bị quy là địa chủ lớn và cũng là người đầu tiên bị tuyên án tử hình trong cải cách ruộng đất! Nghe tin, nhà văn Ngô Tất Tố, người viết tiểu thuyết Tắt đèn, kí sự Việc làng, người có hiểu biết rất cặn kẽ về nông thôn và có sự đồng cảm sâu sắc với nông dân liền viết thư can gián Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng không nên mở đầu sự nghiệp vĩ đại cải cách ruộng đất bằng việc xử bắn một người đàn bà! Hồ Chí Minh vốn là con người tình cảm cũng thấy không thể nhẫn tâm với một người có công như bà Nguyễn Thị Năm, liền có ý kiến với cố vấn Tàu. Nhưng cố vấn Tàu không chấp nhận thay đổi bản án và bà Nguyễn Thị Năm vẫn bị xử bắn! Sách báo chính thống không khi nào ghi lại chuyện đau lòng đáng xấu hổ này nên không thể kiểm chứng sự xác thực của câu chuyện xuất bản. Miệng của mấy ông nhà văn đã hay thọc mạch lại quan hệ rộng, chuyện gì cũng vanh vách. Không xác minh được nên câu chuyện trên chỉ như một giai thoại, một câu chuyện dã sử. Nhưng bà chủ đồn điền Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên đã nuôi hàng trung đoàn Vệ quốc quân là có thật! Bà chủ đồn điền Nguyễn Thị Năm bị xứ bắn trong cải cách ruộng đất là có thật! Và quyền quyết định cao nhất của cố vấn Tàu trong cải cách ruộng đất là có thật!
Làm giầu bằng mọi thủ đoạn độc ác xấu xa là người coi của cải tiền bạc cao hơn mọi giá trị khác, cao hơn cả mạng sống của chính họ. Vô tư dốc của cải trong nhà ra nuôi quân đánh giặc giữ nước thì con người ấy phải có một đời sống văn hoá tinh thần cao cả, đẹp đẽ. Con người ấy không thể làm giầu bằng gian ác, bóc lột. Tội của bà Nguyễn Thị Năm là tội rất mơ hồ, áp đặt. Công của bà Nguyễn Thị Năm rất cụ thể, to lớn, có đầy đủ chứng cứ lịch sử. Phát súng oan nghiệt của cuộc đấu tranh giai cấp vay mượn, ngoại lai đã kết liễu cuộc đời người đàn bà có công lớn với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng là phát súng oan nghiệt kết liễu nền Dân chủ non trẻ mà Hồ Chí Minh đã cố gắng thực hiện trong những năm đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sau hiệp định Genève, Chính phủ kháng chiến trở về Hà Nội, dù Chủ tịch Hồ Chí Minh có đứng trước Quốc hội nhận thiếu sót, sai lầm của cải cách ruộng đất nhưng sai lầm ấy không phải do yếu kém, sơ suất nhất thời, chỉ xảy ra một lần. Nghề này thì lấy ông này tiên sư, khi chúng ta còn lầm rầm câu kinh của ông thánh K. Mác: Đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển! Khi chúng ta còn lấy học thuyết Chuyên chính vô sản cực kì phản dân chủ làm cứu cánh duy trì một nhà nước độc đảng, duy trì một thể chế đảng trị thì chúng ta còn phải lấy cuộc cách mạng vô sản bạo liệt ở nước lớn Trung Hoa làm hình mẫu, thì chúng ta còn phải tôn những người đang tiến hành cuộc cách mạng vô sản sắt máu ở nước lớn Trung Hoa lên làm thầy! Khi ấy cái vòng kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông còn đánh đai trên đầu những người lãnh đạo ở nước ta, thì cách hành xử của nhà nước ta mãi mãi là cách hành xử của cải cách ruộng đất, cách hành xử không cần biết đến pháp luật, không cần biết đến đạo lí, ý muốn của người có quyền, ý muốn của tổ chức nắm quyền trở thành pháp luật nhà nước, thì thảm hoạ cải cách ruộng đất còn lặp đi lặp lại trong suốt quá trình tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản và những thảm hoạ ấy đã diễn ra trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội!
Trong văn nghệ sĩ, trí thức là thảm hoạ Nhân Văn-Giai Phẩm đã giết chết sự sáng tạo, giết cả một nền văn học nghệ thuật suốt gần nửa thế kỉ qua!
Trong sản xuất kinh doanh là thảm hoạ cải tạo tư sản đã huỷ hoại phần lớn tài sản, tư liệu sản xuất của xã hội, đưa xã hội đến chỗ kiệt quệ!
Trong hàng ngũ những người chiến đấu giành độc lập cho đất nước là thảm hoạ của vụ Xét lại, một vụ án được tạo dựng không cần xét xử, một vụ án chính trị trong đó những người còn bị vòng kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông thít trên đầu u mê cuồng tín thẳng tay trừng trị, loại bỏ những người tỉnh táo muốn phá bỏ vòng kim cô đó! Hàng loạt những người có công lớn với nước, thông tuệ, mẫn cảm, trung thực bị giam cầm, đày đoạ cho đến chết!
Những thảm hoạ đó là những tội ác lớn với lịch sử, với dân tộc, gây đau thương cho bao số phận con người đều là những tinh hoa, những người tài năng, ưu tú, kiệt xuất của dân tộc, gây phân rã, li tán cả một dân tộc vốn tồn tại bằng thương yêu, đùm bọc, gây đổ vỡ, tan nát cả một nền tảng đạo đức xã hội! Những tội ác của chuyên chính vô sản với nhân dân, với đất nước quá to lớn và quá rõ ràng thế mà đến nay nhà nước sử dụng bạo lực gây ra những tội ác đó vẫn bình thản bỏ qua, vẫn vô tâm im lặng, không thẳng thắn dũng cảm nhìn nhận để có lời xin lỗi nhân dân, xin lỗi những người bị nạn để vinh viễn chấm dứt một thời mông muội, sử dụng bạo lực chuyên chính vô sản chà đạp lên pháp luật! Không nhìn nhận, không thức tỉnh, vẫn say sưa dùng bạo lực chuyên chính vô sản đàn áp tiếng nói dân chủ, gây ra những tội lỗi mới!
No comments:
Post a Comment