Nguyễn Hoàng Văn
27/08/2025
https://baotiengdan.com/2025/08/27/hoa-kieng-va-van-nuoc/
Có
thể nào nhận ra dấu hiệu suy tàn của vận nước qua thú chơi cây chơi cảnh khác
thường của giới phú hào ngày nay?
Tôi
không nói đến cơn sốt “lan đột biến” như một thủ đoạn thương mại từng gây ồn ào
một dạo, cũng không nhắc đến bonsai như một thú tiêu khiển tao
nhã vẫn đang phổ biến đó đây [1]. Nếu bonsai có thể giúp con
người tập trung trong tĩnh lặng và sự ngưng đọng của thời gian để hòa hợp với một
thiên nhiên cô đọng nhằm giảm nhẹ những áp lực trần thế cho một đời sống thăng
bằng và lành mạnh thì đại bonsai, thú tiêu khiển của những phú hào
thời nay trong danh xưng “cây thế”, thực sự khác [2].
Cái
trò chơi tốn kém và nặng nề cơ giới này, qua quan niệm lấy sự phì đại làm đẹp,
đã lệch lạc hóa mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Sản phẩm tự nhiên của
đất trời, trong kích thước thật giữa đất trời, lại bị tách khỏi đất trời. Dưới
là những cái chậu khổng lồ như cái nhà giam mà trên thì, bất cứ lúc nào, cũng
có thể lơ lửng cỗ máy chém để cưỡng ép cây không được tự nhiên là cây, mà phải
là những linh vật trong những khuôn sáo nào đó, cho những thông điệp cầu cạnh
hay ước muốn nào đó, rất huyền nhiệm nhưng cũng rất thực dụng, phước thọ hay
tài lộc v.v… Bị buộc phải là lân, long, hổ, phụng … trong những “thế” này hay
“thế” kia thì chúng, dẫu cầu kỳ đến mấy về kỹ thuật, cũng hoàn toàn ngây ngô về
mặt thẩm mỹ.
Xem
ra, trò linh vật hóa thiên nhiên này là một hình thức đồng bóng hóa thiên nhiên
và, hệ quả, những thủ phạm cũng lâm vào tình trạng vong thân như những kẻ mê sảng,
lên đồng, có thể vứt ra đến mấy chục gia tài đối với người bình thường, cả chục
hay hàng trăm tỷ đồng, thậm chí đến 20 triệu Mỹ kim. Một cội cây thôi đã bằng mấy
trường tiểu học và, cộng thêm hai nữa, là ngang ngửa với một bệnh viện [3]. Giữa
cái thời thiếu thốn trầm trọng trường học và bệnh viện thì lệch lạc trong quan
hệ giữa con người và thiên nhiên này còn hàm ý một sự lệch lạc và mong manh của
cấu trúc xã hội.
Vì
quá yêu thiên nhiên nên họ mới chấp nhận tốn kém như thế hay chăng? Nếu bảo đó
là tình yêu thì, bất quá, cũng chỉ là thứ tình yêu mà những tên thực dân dành
cho thuộc địa mà mình đã gắn bó đến già đời. Thú tiêu khiển nặng tính thực dân
với đất trời này, phải chăng, là một biến thái của giới giàu xổi hãnh tiến
trong giai đoạn phát triển hoang dã mang tên “chủ nghĩa tư bản thân hữu”?
Thời
nào cũng có bọn hãnh tiến của thời đó cùng những mối quan hệ “thân hữu” liên
quan và, theo Phạm Đình Hổ (1768-1839), trong Vũ Trung Tùy Bút, mục “Chuyện
cũ trong Phủ Chúa Trịnh”, đó đã từng là mốt dưới thời Trịnh Sâm, giai đoạn cuối
của thời Lê Trung Hưng, thời rệu rã của nền quân chủ:
“Khoảng
năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vương (Trịnh Sâm)
thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các ly cung bên Tây hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng
Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên…
Buổi
ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn
dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa
to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ
mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi,
lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng cho đều
tay. Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyến bày vẽ ra hình núi non bộ trông giống như bến
bể đầu non.
Mỗi
đêm khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặc nửa
đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu
bất tường. Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm.
Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt, khướu hay, thì biên ngay hai
chữ “phụng thủ”.
Đêm
đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính tới lấy phăng
đi rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối
gì lớn quá, thậm chí phá nhà hủy tường để đem ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là
giấu vật cung phụng, thường bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập núi non
bộ hoặc phá cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ
Xương, trước nhà tiền đường cũng trồng hai cây lựu trăng, lựu đỏ, lúc ra quả
trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy”.
Tưởng
tượng một “cây đa to, cành lá rườm rà”, rễ dài đến mấy chục thước mộc mà, để di
chuyển, phải điều động cả một “cơ binh” – tức 200 binh lính, cỡ nửa tiểu đoàn –
với hiệu lệnh từ tiếng phèng la, như một thứ quân nhạc [4]. Bề trên là vậy thì
bề dưới, đám phú hào với những “hòn đá hoặc cây cối lớn quá” mà, để mang đi, phải
“phá nhà hủy tường”: Bọn này, như thế, có khác gì những phú hào thời nay
với những “cây thế” nặng đến 50 tấn? [5]
Việc
chơi đã giống thì việc nước cũng chẳng khác gì với vị Chúa thích “chơi đèn đuốc”
và “liên miên xây dựng đình đài”. Việc nước có “vô sự” như Phạm Đình Hổ ghi nhận
thì đó chỉ là sự yên lặng ở bề mặt khi những biến loạn thâm cung đã bị đẩy lùi,
những cuộc nổi dậy xa gần đã bị dẹp tan trong khi, đó đây, theo chính tác giả,
vẫn đầy những mầm mống bất an mà, đầu tiên, là những cái bao tử trống không.
Đó
là thời mà người dân luôn luôn đói. Đói đến độ phải ăn vỏ cây, thịt chuột và,
thậm chí, có nơi còn lừa bán thịt người như Phạm Đình Hổ đã kể trong tùy bút
trên, mục “Võ Thái Phi”:
“Hồi
loạn năm Canh Thân, Tân Dậu (1740 – 1741), tỉnh Hải Dương ta chịu hại về việc
binh đao đến mười tám năm, ruộng đất hầu thành rừng rậm. Giống gấu chó, lợn lòi
sinh tụ đầy cả ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột
đồng mà ăn. Mỗi một mẫu ruộng chỉ bán được cái bánh nướng.
[…]
Các cụ nhà nho làng ta ngày xưa, như ông nho sinh Phạm Diên Bá, thường nói chuyện
với ta rằng, đương lúc loạn lạc, ông đi đường về tỉnh Đông, có vào nghỉ nhà
hàng cơm bên đường, thấy mùi thịt rất tanh, trên mặt nước bát canh nổi sao lên
như hình bán nguyệt. Hỏi người hàng cơm thì họ nói đó là thịt lợn lòi. Khi ăn đến
nửa chừng, thấy có con rận chết ở trên mặt bát, mới biết là thịt người, vội
vàng chạy ra móc cổ thổ ra”.
Mà
cả khi tác giả ghi nhận việc nước “vô sự”, lúc Trịnh Sâm thoải mái chơi đèn đuốc
và cây, năm 1774, cũng là năm đói, mà là “đói to”, đói đến chết, như ghi nhận
trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên (Khâm
Định), quyển 44:
“Giáp
Ngọ, năm thứ 35 (1774). Tháng 2. Nghệ An bị đói to. Dân Nghệ An nhiều người chết
đói. Triều đình hạ lệnh cho các quan giữ chính quyền bàn định thi hành việc
phát chẩn […] Lại hạ lệnh cho ti Hiến sát dò hỏi tỉ mỉ về sự đau khổ của dân, rồi
trình bày để triều đình rõ. Nhưng những việc ấy cũng chỉ là giấy má hão mà
thôi”.
Đói
từ nhiều năm trước. Đói vào lúc đó. Rồi đói về sau và, xem ra, đó là thời kỳ mà
dân luôn luôn đói, theo Khâm Định. Năm 1777 Nghệ An lại đói, “thây
chết đói nối liền với nhau”. Năm sau, 1778, cũng đói không chỉ ở Nghệ An, “đầy
đường những thây chết đói”. Cái đói cứ tiếp nối như thế kể từ khi nhà Trần suy
vong, lai rai đói vào thời Lê, càng trầm trọng hơn vào nửa sau thời Lê Trung
Hưng mà, trong đó, kinh khủng nhất có lẽ là thời Trịnh Sâm với nạn đói, nạn
binh đao, loạn kiêu binh, loạn con ông cháu cha dựa thế lộng hành, vô pháp vô
thiên.
Nhưng
Trịnh Sâm thì vẫn thoải mái “chơi đèn đuốc”, “đình đài” và những cây to đến độ
cả nửa tiều đoàn mới có thể dịch chuyển. Trịnh Sâm, do đó, rất khác với Lê Thái
Tổ, vị vua mà tháng 3 năm 1429, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ra
lệnh quân binh và “phủ đệ của công hầu trăm quan” đã được chia đất phải “trồng
cây, trồng hoa và các loại rau đậu”, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu. Lê Thái Tổ
đã từng nhịn đói “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần” để mưu đồ việc lớn nên rất
là thực tế. Một nền kinh tế bị đình trệ sau 10 năm khói lửa thì cần đến rau đậu
như một thứ thực phẩm ngắn ngày. Và một Thăng Long điêu tàn sau 10 năm bị ngoại
xâm tàn phá phải tươi lên với hoa để lòng người theo đó mà thắm lên, với một
triều đại mới, cho một việc lớn mới.
Nếu
lệnh trồng hoa của Lê Thái Tổ mang tinh thần thực dụng thì lạc thú điền viên của
Nguyễn Trãi, kể từ khi lùi về ẩn dật tại Côn Sơn khoảng 9 năm sau đó, lại biểu
lộ một phong vị nghệ thuật. Qua những bài thơ để lại, chúng ta dễ dàng nhận ra
điều này qua những cảnh sắc mang tính tượng trưng, sơn thủy hay lâm tuyền, rồi
mai, cúc, trúc, đào, mai, sen v.v… Nếu sơn thủy là hai yếu tố thẩm mỹ then chốt
trong mỹ thuật cổ điển Trung Hoa thì chúng cũng quan trọng không kém với nghệ
thuật điền viên ở tính biểu tượng, là nhu đối với cương, là tĩnh đối với động,
là hư đối với thực, là bề rộng đối với chiều cao v.v… Trong phong vị nghệ thuật
đó của Nguyễn Trãi, chúng ta còn nhận ra nỗ lực nhân cách hóa thiên nhiên qua
phẩm cách của từng loại cây, từ tùng không rụng lá trong tiết lạnh đến trúc “tiết
trực tâm hư”, rồi cúc “ẩn dật” và sen thanh cao như người quân tử “gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn” v.v… Người Trung Hoa chơi hoa kiểng đời Hán nhưng phong
vị này chỉ hình thành với cả một hệ thống lý luận từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều,
khoảng bốn thế kỷ sau khi Hán Cao Tổ dựng nghiệp [6].
Đó
là thời kỳ “bản lề” của văn hóa Trung Quốc trong đó có “văn hóa điền viên” với ảnh
hưởng đến nhiều đời sau và, hẳn nhiên, với cả Nguyễn Trãi. Và đó cũng là thời của
những biến chuyển chính trị gay gắt khiến đời sống quan trường trở nên bấp
bênh. Cảm thấy sự vô thường trong những chuyện sống chết, vinh nhục, giàu có và
trắng tay, nhiều thức giả chán nản tìm về với sự thuần phác của con người thuở
ban sơ qua với triết học Lão Trang, tìm về thiên nhiên với một đời sống ẩn dật,
xa lánh phù thế. Nhưng sự đời không đơn giản thế, nhất là khi nhà Tùy cải cách
quan chế, bãi bỏ chế độ thế tập, áp dụng hình thức tiến cử và khoa cử [7]. Từ
đây, muốn làm quan, muốn hưởng bổng lộc triều đình, thì phải có sở học hay thực
tài để, hoặc được tiến cử, hoặc vượt qua các kỳ thi.
Với
giới quý tộc cứ tưởng là sẽ hưởng bổng lộc đời đời, đây là một sự hụt hẫng với
cảm giác cùng đường và, đối mặt với một tương lai bấp bênh, họ hiểu ra nhu cầu
thủ thân bằng ruộng đất để, trong tình thế xấu nhất, vẫn có thể hưởng nhàn như
những bậc địa chủ. “Lạc thú điền viên”, ở đây, chính là nỗ lực thanh cao hóa
cho một tính toán thực dụng, là sự cân bằng cho cái cảm giác hụt hẫng của kẻ bị
cho ra rìa [8].
Phong
vị điền viên cũng thật giả từ đây. Những tao nhân thực sự chán ngán quan trường
khốc liệt với những “điền viên” đạm bạc, tao nhã. Những “ngụy tao nhân”, vì
không thể níu giữ đặc quyền trần thế nên mới tạo dáng, làm ra vẻ yêu thích
thiên nhiên và, do đó, chỉ có thể tạo nên những hình thức… tưởng là thiên
nhiên. Và cả giới quan quyền hay phú hào đua đòi, thuận theo cái mốt yêu chuộng
thiên nhiên mà khoa trương quyền lực, địa vị, tạo dáng gần gũi thiên nhiên
nhưng thiếu điều cưỡng hiếp thiên nhiên.
Đây,
phải chăng, là trường hợp của Trịnh Sâm và những phú hào thời ấy? Khi sử dụng đến
nửa tiểu đoàn có đội hộ tống cầm gươm trong tiếng thanh la xập xẻng để di chuyển
một cây đa thì Trịnh Sâm cũng chỉ muốn khoe khoang quyền lực và chứng tỏ sự nổi
trội, hơn người. Không thể khoe khoang với mức độ như Trịnh Sâm, những phú hào
ngày ấy cũng cố hơn người với những cây cảnh hay hòn đá mà, nếu muốn di chuyển,
phải hủy nhà đập tường, rồi những hoa kiểng khác thường mà Phạm Đình Hổ kể lại
trong Vũ Trung Tùy Bút, mục “Hoa thảo”:
“Ta
xét ra những cách chơi cỏ, cây, hoa, đá từ đời nhà Hán đã có, đến các đời sau,
mỗi ngày mỗi đổi cách chơi cho mới lạ thêm…. đến nay vẫn còn truyền miệng ở dân
gian. Thế mới biết người xưa cũng thường cho tinh thần đi chơi ngoài cảnh vật,
trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân, vậy nên mượn khóm hoa,
tảng đá để ký thác hoài bão cao cả, mở vườn trồng cây, chồng đá làm núi, khiến
cho cái vẻ đẹp của cỏ cây, cái thế hùng vĩ của núi non trình bày ra trước sân,
trước cửa sổ đó mà thôi, chứ có phải hết sức mà chăm chút cảnh vật đâu. Về sau
này, thế thái đã suy, nhân tâm lại bạc, cái cây thẳng đem uốn cho cong đi, hòn
đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác ra, bàn tay nhân tạo càng khéo thì cái thú
thiên nhiên lại càng kém!
Ta
chỉ quái lạ cho người đời bây giờ, chơi hoa, chơi đá, mà chỉ lấy cái ý kiến
riêng, muốn làm khéo hơn người trước mà lại thành ra vụng, uốn cây đục đá, muốn
làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời,
kỳ lân đạp chân xuống đất, biết bao nhiêu cách không thể nói hết được. Ôi! Nếu
trời sinh ra cây ra đá mà làm hệt như hình cầm thú thì tạo vật cũng đến phải hết
nghề, còn có gì mà đáng thưởng ngoạn nữa! Phỏng như để những hình long, hổ ngoằn
ngoèo, sư, lân hống hách và những hình xà thần, ngưu quỷ đầy cả nhà thì trông
thấy, ai chẳng bịt mắt lắc đầu mà chạy. Thế nhưng người đời lại lấy cách chơi ấy
làm cao, ta thực không hiểu ra làm sao cả”.
Viết
về thời của mình mà Phạm Đình Hổ, cơ hồ, như là viết cho hai thế kỷ sau, thời của
chúng ta. Cũng là mối quan hệ lệch lạc giữa con người với thiên nhiên. Cũng là
“cái cây thẳng đem uốn cho cong đi hay “hòn đá phẳng đem đẽo vạc cho nó hốc hác
ra”. Cũng là “uốn cây đục đá, muốn làm cho giống hình loài cầm thú, nào rồng
leo, hổ phục, sư tử ngoảnh mặt lên trời, kỳ lân đạp chân xuống đất” khiến “tạo
vật cũng đến phải hết nghề”.
Phạm
Đình Hổ đề cập đến tình trạng “thế thái đã suy, nhân tâm lại bạc” mà sự “suy bạc”
lớn nhất, trong cái nhìn từ hôm nay, là ở Trịnh Sâm, vị Chúa “liên miên xây dựng
đình đài” trong khi xác người chết đói rải rác khắp xứ. Một Trịnh Sâm tự mãn,
hoàn toàn đui điếc trước thực tế khi cho rằng xứ sở đã “thái bình” và, thậm
chí, còn đạt đến một “cơ nghiệp chưa từng có” đến độ năm 1773 phải “làm lại sổ
hộ tịch” như ghi chép của Khâm Định trong quyển 44:
“Trịnh
Sâm nhận thấy trong nước đã đi đến thái bình, số hộ khẩu ngày thêm nảy nở, muốn
xét thực số đinh để sửa đổi lại ngạch đinh trong sổ, (Lê) Quý Đôn lại ra sức
tán thành. […] Quý Đôn kê cứu tra xét quá nghiêm khắc, nhân dân đều nghiến răng
căm hờn, họ làm thư nặc danh dán ở cửa phủ chúa Trịnh xin bãi bỏ Quý Đôn đi mà
dùng (Hoàng) Ngũ Phúc, lời lẽ trong thư rất là khích thiết. Nhân đân, Trịnh Sâm
thay đổi mệnh lệnh, cho Ngũ Phúc cùng Quý Đôn đều giữ công việc đôn đốc làm sổ.
Ngũ Phúc xin thi hành theo điều lệ đời Cảnh Trị, đại để có nơi tăng, có nơi giảm,
có nơi bình bổ vẫn như cũ. Số dân đinh hơi kém với ngạch đinh năm Bảo Thái, dân
cũng cho là thuận tiện. Quý Đôn lại cùng Phạm Huy Đĩnh tra xét vùng ven biển
thuộc lộ Sơn Nam hạ, trích ra được hơn chín ngàn mẫu ruộng lậu thuế, đều đăng
ký vào ngạch thuế bắt phải chịu tô. Nhân dân phần nhiều ta oán.
Nghĩ
về sự “thái bình” của đất nước nhưng lại tiến hành những việc khiến người dân
“nghiến răng căm hờn” và “phần nhiều ta oán” thì đó, hẳn nhiên, là gieo mầm cho
sự tan rã. Mà mầm mống bất ổn thì không thiếu, như “phụng thủ” – tức lấy để
dâng Chúa – như là chiêu bài của bọn hoạn quan thối nát nhằm chính danh hóa cho
trò cướp ngày. Xã hội đầy những mầm mống bất ổn như thế nên, mười mấy năm sau,
năm 1786, khi Tây Sơn tiến quân ra Bắc, cơ nhiệp nhà Trịnh đã tan tành trong
nháy mắt.
Bây
giờ, sau hai thế kỷ, cũng vậy với sự tự mãn về cơ đồ chưa từng có. Cũng “liên
miên xây dựng đình đài”. Cũng “phụng thủ” trong những ngôn từ mới, nào là “quy
hoạch” như từng xảy ra Thủ Thiêm hay, nghiêm trọng là “mục đích quốc phòng” và
“lợi ích quốc gia” từng áp dụng ở thôn Hoành v.v… Lịch sử, thường được hiểu như
là những nỗ lực tái tạo quá khứ. Và lịch sử, trong cách nhìn của sử gia Edward
Hallett Carr, là sự tương tác và đối thoại bất tận giữa hiện tại với quá khứ
[9]. Nhưng bây giờ, qua những điều như thế, quá khứ đang tái hiện trong hiện tại
và quá khứ đang tương tác hay đàm thoại với hiện tại, hoàn toàn một chiều.
Và
đó lại là thứ quá khứ chẳng ra gì. Thời suy tàn của nền quân chủ này chẳng ra
gì với nạn đói liên miên, những hoạn quan thối nát với lá bùa “phụng thủ”, những
kiêu binh ngạo mạn khi được thế và hèn nhát khi thua cuộc. Nó chẳng ra gì như
là thời “thái bình” trong cái nhìn từ bên trên để liên miên xây dựng đình đài
giữa lúc, từ bên dưới, nhân dân đang “nghiến răng căm hờn”, đang “phần nhiều ta
oán” và thây ma chết đói nối liền nhau. Nó chẳng ra gì với hạng vô lại dựa dẫm
thế nhà như Đặng Mậu Lân – em trai Đặng Thị Huệ, sủng phi của Trịnh Sâm – mà lộng
hành, vô pháp, vô thiên, cưỡng dâm người khác không được thì xẻo vú, thậm chí
ngang nhiên hãm hiếp đàn bà con gái ngay giữa phố thị, sau khi cho đàn em kê
giường và quây màn trướng.
Và
nó cũng chẳng ra gì với thú chơi cây chơi kiểng khác thường khiến một thức giả
đương thời ngao ngán “thực chẳng hiểu làm sao cả”, y như là thời hôm nay với những
“cây thế” có giá cả bằng mấy trường học hay một phần bệnh viện, giữa cái thời đất
nước cực kỳ thiếu thốn phương tiện để chăm sóc phần hồn cho trẻ em và chăm sóc
phần xác, cho mọi lứa tuổi…
_________
Chú
thích:
1.
Theo những người thuộc giới kinh doanh tại VN thì đầu tiên “lan đột biến” với
giá cao ngất là một chiêu thức rửa tiền, sau đó là sự bịp bợm của đám tinh ranh
muốn khai thác lòng tham của giới trung gian, giống như cơn sốt “chim cút” mà
giới Hoa kiều tại Chợ Lớn thổi bùng vào thập niên 1970 tại miền Nam.
2.
Theo một phóng sự truyền hình tôi đã xem từ lâu trên đài SBS của Úc về những
người sống thọ thì, ngoài những yếu tố như môi trường, dinh dưỡng,văn hóa cộng
đồng v.v… người dân đảo Okinawa (Nhật) còn sống lâu nhờ bonsai: giúp họ thư
giãn, xóa tan những áp lực, và việc tỉa bonsai nhẹ nhàng nhưng lập đi lập lại sẽ
giúp họ giảm nguy cơ bị bệnh khớp với hai bàn tay.
Trong
khi đó kết quả tra cứu trên google, cho thấy, vào thời điểm 2023, kinh phí xây
dựng một trường tiểu học là 100 tỷ đồng, còn một bệnh viện là từ 60 triệu đến
187.5 triệu Mỹ kim.
https://thietkebenhvien.vn/chi-phi-xay-dung-benh-vien/
4.
Lúc này, đời vua Lê Hiển Tông (1740 –1786) – thì một cơ có 200 quân.
Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – Chính Biên, Quyển 40 ghi lại
chuyện trong năm Mậu Thìn, (1748): “Trước đây, phân phối vệ binh lệ thuộc
vào các vệ, người đứng cai quản phần nhiều đem binh lính sung làm việc riêng,
hoặc tha cho về mà bắt nộp tiền cỏ ngựa; về phần binh lính thì thường mướn người
nghèo yếu đi thay. Kỷ luật lỏng lẻo, nói về thực dụng không có ích gì. Triều
đình bèn hạ lệnh cho vệ binh đều lệ thuộc vào trấn, chia đặt từng cơ, từng đội,
cứ 200 người làm một cơ, cho phép một nửa ở quân ngũ, một nửa về làm ruộng,
thay đổi lẫn nhau.”
6.
Nhà Hán tồn tại qua thời kỳ Tây Hán (202 BC– 9) và Đông Hán (25 – 220). Thời Ngụy
Tấn Nam Bắc Triều bắt đầu từ năm 220, khi Tào Phi cưỡng bách Hán Hiến Đế phải
nhường ngôi cho mình.
7.
Nhà Tùy (581-619) kế thừa Nam-Bắc triều và thống nhất Trung Quốc sau đó là nhà
Đường.
8.
Trần Chí Hoa, “Viên lâm cổ đại”, trong Lịch sử Văn hóa Trung Quốc,
Đàm Gia Kiện chủ biên (1993) Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 726 – 744. Bản
dịch của Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang, Phan Văn Các.
9.
Edward Hallett “Ted” Carr, sử gia Anh (1892-1982). Ý tưởng này trình bày trong
cuốn What is History (University of Cambridge & Penguin Books. 1961)
Tôi
đã đề cập đến điều này trong tiểu luận “Thương lượng và hòa giải, từ Lạc Long
Quân đến Donald Trump”: https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/thuong-luong-v-ha-giai-tu-lac-long-qun-den-donald-trump/
No comments:
Post a Comment