Tuesday, June 24, 2025

TẠI SAO SUY THOÁI VĂN HÓA Ở HOA KỲ LÀ MỘT MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI NỀN DÂN CHỦ (Jonathan Sumption | The New York Times)

 



Văn hóa và Dân chủ (Jonathan Sumption) 

TẠI SAO SUY THOÁI VĂN HÓA Ở HOA KỲ LÀ MỘT MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI NỀN DÂN CHỦ

Why Cultural Decline in the U.S. Is a Threat to Democracy

Tác giả: Jonathan Sumption

Báo The New York Times, ngày 2 tháng 6, 2025

Người dịch: Mai Lê

Xem lại và trình bày: Nguyễn Xuân Xanh

14 Tháng Sáu, 2025

https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/van-hoa-va-dan-chu-jonathan-sumption/

 

Khi những kỳ vọng này không được đáp ứng, mà đây lại là điều thường xuyên xảy ra, người ta đổ lỗi cho hệ thống hoặc cho “nhà nước ngầm.” Họ quay lưng lại với toàn bộ tầng lớp chính trị, tầng lớp đã tỏ ra không thể đáp ứng các đòi hỏi về việc cải thiện cuộc sống của họ một cách liên tục. Khi vắng bóng văn hóa dân chủ, người dân sẽ tự nhiên tìm đến các “nhà lãnh đạo mạnh tay” (strongmen) và tự huyễn hoặc rằng những người đó sẽ làm nên chuyện.

— Jonathan Sumption

 

HÌNH : https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2025/06/Anh-tac-gia.jpg?resize=580%2C326&ssl=1

 

Tác giả: Jonathan Sumption là cựu thẩm phán Tòa án Tối cao Vương quốc Anh, là tác giả của cuốn sách mới nhất: “Những thách thức của nền dân chủ: Và Pháp quyền” (The Challenges of Democracy: And The Rule of Law| Feb 13, 2025)

 

Là một người quan sát các nền dân chủ và là một luật sư hiến pháp tại Anh Quốc, tôi đã theo dõi với sự lo ngại ngày càng tăng lên khi nhiều quốc gia phương Tây đang đứng trước nguy cơ trở thành những nền dân chủ thất bại.

 

Họ có thể chưa giống như Venezuela, Peru, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ hay Nga. Nhưng những quốc gia đó cho thấy điều gì có thể xảy ra khi một nền dân chủ âm thầm lụi tàn, chứ không phải bằng một cú sụp đổ long trời. Có thể không có xe tăng tràn ra bãi cỏ hay đám đông trên đường phố, nhưng họ dần mất đi tất cà những gì khiến họ là một nền dân chủ, và điều này thường diễn ra với sự ủng hộ đáng kể từ công chúng.

 

Những quốc gia này vẫn có bầu cử, cơ quan lập pháp, tòa án và những tổ chức khác. Khung thể chế vẫn còn đó. Nhưng họ không còn là các nền dân chủ nữa, bởi vì văn hóa chính trị (political culture), điều mà nền dân chủ phụ thuộc vào, đã sụp đổ.

 

Giờ đây, Hoa Kỳ đang có nguy cơ bị đưa vào danh sách này. Đang tồn tại những căng thẳng giữa các định chế, dù nhìn chung chúng vẫn còn vận hành. Nhưng điều đáng báo động hơn là sự xuống cấp rõ rệt trong văn hóa chính trị. Giống như nhiều nền dân chủ phương Tây khác, nước này đang chao đảo trước sức nặng của những kỳ vọng ngày càng phi thực tế mà cử tri đặt lên nhà nước.

 

Dân chủ là một cơ chế hiến định nhằm tự quản tập thể, và là cách thức giao phó việc ra quyết định cho những người được đa số chấp nhận, những người mà quyền lực của họ được xác định và có giới hạn, và quyền lực này có thể bị thu hồi. Đó là khung thể chế.

 

Nhưng văn hóa dân chủ đòi hỏi nhiều hơn là các định chế. Nó phụ thuộc vào bản năng của giới chính trị và công dân. Nó đòi hỏi sự sẵn sàng lựa chọn những giải pháp mà phần đông người dân có thể chấp nhận được. Nó yêu cầu những quy ước về cách thức thực thi quyền lực, ngay cả quyền lực hợp pháp, sao cho tránh được những quyết định tùy tiện, mang tính trừng phạt hay áp bức. Trên hết, nó đòi hỏi mọi người phải coi đối thủ chính trị là đồng bào, những người có quan điểm khác biệt với họ – chứ không phải là kẻ thù cần bị tiêu diệt.

 

Do đó, Tổng thống Trump trở nên đặc biệt đáng chú ý, bởi ông thể hiện ba dấu hiệu kinh điển của chủ nghĩa toàn trị: 

1. Một nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn được bao quanh bởi một thứ sùng bái cá nhân, 2. Đồng nhất hóa nhà nước với bản thân ôngvà 

3. Từ chối thừa nhận tính chính danh của phe đối lập hay bất đồng quan điểm.

Hệ quả là một chế độ cai trị theo ý chí cá nhân thay thế cho nhà nước pháp quyền, điều mà các nhà lập quốc Hoa Kỳ coi là tuyến phòng thủ chủ chốt chống lại bạo quyền.

 

Ông Trump đã sử dụng quyền lực công để theo đuổi những mối hận thù cá nhân: ví dụ, nhắm vào các hãng luật từng đại diện cho đối thủ chính trị của ông; nhắm vào những nhân vật của công chúng mà ông đã tước bỏ sự bảo vệ an ninh; hoặc nhắm vào các định chế văn hóa, từ Đại học Harvard đến Trung tâm Kennedy, những nơi không chia sẻ nghị trình cá nhân của ông.

 

Điều 2 của Hiến pháp Hoa Kỳ yêu cầu tổng thống phải “bảo đảm rằng các đạo luật được thực thi một cách trung thực.” Thế nhưng, điều này cũng đã trở nên phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân tổng thống. Ông Trump đã chỉ đạo Bộ Tư pháp không thi hành những đạo luật do Quốc hội ban hành, chẳng hạn như Đạo luật chống Tham nhũng ở Nước ngoài (Foreign Corrupt Practices Act), đã cắt giảm hoặc chấm dứt các chương trình mà Quốc hội đã phê duyệt ngân sách, và đã đe dọa cắt viện trợ liên bang đối với các thống đốc cùng các nhà chức trách khác nếu họ không tuân theo ý muốn của ông.

 

Những người quan sát từ nước ngoài như tôi có thể thoải mái dõi theo những diễn biến này từ xa, nhưng chúng ta cũng cần nhìn lại sự mong manh của chính các nền dân chủ của mình. Những gì đang diễn ra ở Hoa Kỳ thực chất là một cuộc khủng hoảng về kỳ vọng, điều cũng đang phổ biến ở các nền dân chủ tiên tiến khác. Một tổ chức thăm dò ý kiến uy tín tại Anh vào năm 2019 đã phát hiện rằng: đa số người dân (54%) đồng tình với phát biểu rằng “Vương quốc Anh cần một nhà lãnh đạo mạnh tay, sẵn sàng phá vỡ các quy tắc.”

 

Lục địa châu Âu đã chứng kiến mức độ ủng hộ bầu cử cao dành cho những nhân vật thể hiện rõ xu hướng chuyên quyền, chẳng hạn như Marine Le Pen ở Pháp, Jörg Haider ở Áo, Viktor Orbán ở Hungary, và những nhân vật hàng đầu của đảng cực hữu Sự lựa chọn khác vì nước Đức (Alternative for Germany- AfD).

 

Nguyên nhân của hiện tượng này rất phức tạp, nhưng cái chính là do những kỳ vọng ngày càng phi thực tế đối với nhà nước và sự ác cảm ngày càng tăng của cử tri đối với rủi ro. Một số điều mà cử tri mong đợi nằm ngoài khả năng thực hiện của nhà nước. Một số điều khác chỉ có thể được thực hiện với cái giá phải trả là hy sinh những giá trị cũng quan trọng không kém. Điều này đặc biệt đúng với kỳ vọng mạnh mẽ nhất của cử tri: rằng nhà nước sẽ bảo vệ họ khỏi những tác động bất lợi của nền kinh tế.

 

Chúng ta khao khát được nhà nước bảo vệ trước nhiều rủi ro vốn gắn liền với cuộc sống: sự không ổn định trong công việc, khó khăn kinh tế, hạn hán, hỏa hoạn và lũ lụt, bệnh tật và tai nạn. Ở một khía cạnh nào đó, đây là phản ứng tự nhiên trước sự gia tăng vượt bậc về năng lực kỹ thuật của loài người kể từ giữa thế kỷ XIX. Trước mọi nguy cơ, chúng ta đòi hỏi phải có một giải pháp từ chính phủ. Nếu không, chúng ta quy trách nhiệm cho sự bất tài của cơ quan này.

 

Khi những kỳ vọng này không được đáp ứng, mà đây lại là điều thường xuyên xảy ra, người ta đổ lỗi cho hệ thống hoặc cho “nhà nước ngầm.” Họ quay lưng lại với toàn bộ tầng lớp chính trị, tầng lớp đã tỏ ra không thể đáp ứng các đòi hỏi về việc cải thiện cuộc sống của họ một cách liên tục. Khi vắng bóng văn hóa dân chủ, người dân sẽ tự nhiên tìm đến các “nhà lãnh đạo mạnh tay” (strongmen) và tự huyễn hoặc rằng những người đó sẽ làm nên chuyện.

 

Hoa Kỳ là một ví dụ đặc biệt đáng chú ý. Quốc gia này đã trải qua một thế kỷ rưỡi gần như liên tục gặp may mắn. Nhưng điều đó giờ đây có thể đang đi đến hồi kết, trước sự cạnh tranh từ các quốc gia như Ấn Độ và Trung Quốc. Những kỹ năng cũ đã trở nên lỗi thời trong các nền kinh tế có mức lương cao, khi sự thịnh vượng quốc gia chuyển dịch sang các ngành công nghệ cao, ảnh hưởng đến thu nhập vốn trước đây đến từ sản xuất, nông nghiệp và các ngành khai thác tài nguyên. Ngay cả trong những lĩnh vực công nghệ cao mà Hoa Kỳ mạnh nhất, lợi thế dẫn đầu của họ cũng đã bị rút ngắn, và trong một số trường hợp, đã biến mất.

 

Những vấn đề này không phải là vấn đề của riêng Hoa Kỳ. Châu Âu còn chịu ảnh hưởng nặng nề hơn, và kỳ vọng của người dân châu Âu đối với nhà nước cũng cao hơn. Sự tan vỡ của tinh thần lạc quan là một thời điểm nguy hiểm trong đời sống của bất kỳ nền dân chủ nào. Sự vỡ mộng với lời hứa về tiến bộ đã từng là một yếu tố chính dẫn đến cuộc khủng hoảng của châu Âu bắt đầu từ năm 1914 và kết thúc vào năm 1945.

 

Bi kịch nằm ở chỗ: kinh nghiệm lịch sử đã cảnh báo chúng ta rằng các “nhà lãnh đạo mạnh tay” không thực sự giải quyết được vấn đề. Giỏi lắm, họ chỉ có thể chiều theo những ảo tưởng của một bộ phận dân chúng. Nhưng cái giá phải trả là gì? Những nhà lãnh đạo kiểu này thường bị ám ảnh bởi một vài ý tưởng đơn giản mà họ coi là giải pháp cho các vấn đề phức tạp. Việc tập trung quyền lực vào một nhóm nhỏ và thiếu vắng sự tham vấn, phản biện rộng rãi khiến họ có thể đưa ra những quyết định quan trọng một cách vội vàng, thiếu suy xét, thiếu kế hoạch, thiếu nghiên cứu và thiếu tham khảo ý kiến chuyên môn. Trong hàng ngũ chính quyền, một nhà lãnh đạo kiểu này sẽ thúc đẩy lòng trung thành mù quáng thay vì trí tuệ, cổ vũ sự tâng bốc thay cho những lời khuyên khách quan, và đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích công. Tất cả những điều này thường dẫn đến hỗn loạn, sự sụp đổ chính trị, suy kiệt kinh tế và chia rẽ xã hội.

 

Nếu đủ số người Mỹ kiên định bầu chọn các nhân vật độc tài vào chính quyền, và đưa những cổ động viên của họ vào Quốc hội, thì nền dân chủ sẽ không thể tồn tại. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa phải là điều không thể tránh khỏi.

 

Các nhà lập quốc Hoa Kỳ nhận thức sâu sắc về nền tảng văn hóa của nền dân chủ và hiểu rõ sự mong manh của nó. Vị tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ, John Adams, đã tóm lược nỗi lo ấy trong một bức thư ông viết vào lúc tuổi già. Nền dân chủ, ông viết, cũng dễ bị tổn thương trước thói phù phiếm, tính kiêu ngạo, sự tham lam và tham vọng như bất kỳ hình thức chính quyền nào khác, thậm chí còn kém ổn định hơn. “Chưa từng có nền dân chủ nào mà không tự sát,” ông viết.

 

Câu trả lời của các nhà lập quốc trước xu hướng tự hủy của nền dân chủ là thiết kế ra một “chính quyền của luật pháp, không phải chính quyền của con người.” Một chính quyền của luật pháp được đặt trên những nguyên tắc hợp lý và được áp dụng nhất quán. Còn một chính quyền của con người thì lại khác: đó là lời mời gọi cho sự cai trị tùy tiện, dưới ý chí của một nhóm ít người ở trung tâm quyền lực quốc gia, được dẫn dắt bởi chính những thói xấu – phù phiếm, kiêu ngạo, tham lam và tham vọng – mà Adams tin rằng sớm muộn cũng sẽ hủy hoại bất kỳ nền dân chủ nào.

 

Trong lịch sử nước Mỹ từng có những kẻ mị dân. Nhưng cho đến nay, họ đều thất bại. Các đảng phái chính trị đã đủ tôn trọng cơ chế dân chủ để loại họ ra ngoài cuộc chơi.

 

Những người bạn của Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới chỉ còn biết hy vọng rằng chính trải nghiệm với chính quyền chuyên chế sẽ thôi thúc cử tri khôi phục lại truyền thống dân chủ của đất nước, và thực sự làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại.

 

Jonathan Sumption

 

Bản gốc ở đây:

https://www.nytimes.com/2025/06/02/opinion/united-states-democracy-culture.html

 

 

Lời bạt

SUY NGHĨ VỀ NƯỚC MỸ

Timothy Snyder

(Nhà sử học Mỹ, nhận được nhiều giải thưởng trong đó có Giải Hannah Arendt)

 

Lịch sử không lặp lại, nhưng nó chứa nhiều bài học. Khi những Người cha sáng lập tranh luận về Hiến pháp của chúng ta, họ đã lấy các bài học từ lịch sử mà họ biết. Lo ngại rằng nền cộng hòa dân chủ mà họ hình dung sẽ sụp đổ, họ đã suy ngẫm về sự suy tàn của các nền dân chủ và cộng hòa cổ đại xuống thành chế độ đầu sỏ (oligarch) và đế chế. Như họ biết, Aristote đã cảnh báo rằng bất bình đẳng là nguồn gốc của sự bất ổn, trong khi Plato tin rằng những kẻ mị dân lợi dụng quyền tự do ngôn luận để tự đưa họ lên làm bạo chúa. Khi thành lập một nền cộng hòa dân chủ theo luật pháp và thiết lập một hệ thống kiểm tra và cân bằng, những Người cha lập quốc đã tìm cách tránh cái ác mà họ, giống như các nhà triết học cổ đại, gọi là chế độ chuyên chế (tyranny). Họ nghĩ đến việc một cá nhân hoặc một nhóm người chiếm đoạt quyền lực, hoặc việc những người cai trị lách luật để hưởng lợi cho chính họ. Phần lớn các cuộc tranh luận chính trị sau đó ở Hoa Kỳ đều liên quan đến vấn đề chuyên chế trong xã hội Hoa Kỳ: ví dụ như đối với nô lệ và phụ nữ.

 

Lịch sử có thể làm cho chúng ta quen thuộc, và nó có thể cảnh báo. Vào cuối thế kỷ XIX, cũng như vào cuối thế kỷ XX, sự mở rộng của thương mại toàn cầu đã tạo ra kỳ vọng về sự tiến bộ. Vào đầu thế kỷ XX, cũng như vào đầu thế kỷ XXI, những hy vọng này đã bị thách thức bởi những tầm nhìn mới về chính trị quần chúng (mass politics) trong đó một nhà lãnh đạo hoặc một đảng tuyên bố đại diện trực tiếp cho ý chí của người dân. Các nền dân chủ châu Âu đã sụp đổ thành chủ nghĩa độc tài cánh hữu và chủ nghĩa phát xít vào những năm 1920 và 1930. … Lịch sử châu Âu của thế kỷ XX cho chúng ta thấy rằng xã hội có thể tan vỡ, nền dân chủ có thể thất thủ, đạo đức có thể sụp đổ và con người bình thường có thể bỗng nhiên thấy mình đứng trên hố tử thần với vũ khí trên tay. Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta ngày nay hiểu lý do tại sao.

 

Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1989-91, chúng ta đã bị thấm nhuần huyền thoại về “sự kết thúc của lịch sử”. Khi làm như vậy, chúng ta đã hạ thấp khả năng phòng thủ, hạn chế trí tưởng tượng và mở đường cho chính những chế độ mà chúng ta tự nhủ rằng chúng sẽ không bao giờ có thể quay trở lại.

 

Chúng ta có thể bị cám dỗ nghĩ rằng di sản dân chủ của chúng ta tự động bảo vệ chúng ta khỏi những mối đe dọa như vậy. Đây là một phản xạ sai lầm. Trên thực tế, tiền lệ do những Người cha sáng lập đặt ra đòi hỏi chúng ta phải xem xét lịch sử để hiểu được nguồn gốc sâu xa của chế độ chuyên chế và cân nhắc những phản ứng thích hợp đối với nó. Người Mỹ ngày nay không khôn ngoan hơn người châu Âu đã chứng kiến ​​nền dân chủ đã bị khuất phục trước các chế độ độc tài trong thế kỷ XX thế nào. Lợi thế duy nhất của chúng ta là chúng ta có thể học hỏi từ kinh nghiệm của họ. Bây giờ là thời điểm tốt để làm như vậy.

 

Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1989-91, chúng ta đã bị thấm nhuần huyền thoại về “sự kết thúc của lịch sử”. Khi làm như vậy, chúng ta đã hạ thấp khả năng phòng thủ, hạn chế trí tưởng tượng và mở đường cho chính những chế độ mà chúng ta tự nhủ rằng chúng sẽ không bao giờ có thể quay trở lại.

 

Những Người cha lập quốc (nước Mỹ) đã cố gắng bảo vệ chúng ta khỏi mối đe dọa mà họ biết, chuyên chế, chế độ đã chiến thắng nền dân chủ cổ xưa. Ngày nay, trật tự chính trị của chúng ta phải đối mặt với những mối đe dọa mới, không khác gì chủ nghĩa toàn trị của thế kỷ XX. Chúng ta không khôn ngoan hơn những người Châu Âu, những người đã chứng kiến nền dân chủ của họ thua thiệt trước chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Quốc xã … . Một lợi thế của chúng ta là chúng ta có thể học hỏi từ kinh nghiệm của họ. Bây giờ là thời điểm tốt để làm điều đó.

 

(Trích đoạn từ quyển sách On Tyranny: Twenty Lessons from the Twentieth Century 2017 của Timothy Snyder)

 

 

DÂN CHỦ NHƯ MỘT GIÁ TRỊ PHỔ QUÁT

Democracy as a Universal Value

Amartya Sen

(Nhà kinh tế học Ấn độ giải Nobel, 1998, và National Humanities Medal Hoa Kỳ, 2011)

 

Nhìn dưới góc độ này, những giá trị của nền dân chủ và sự yêu sách của nó như một giá trị phổ quát có thể liên quan đến một số đức tính riêng biệt đi kèm với việc thực hành không bị giới hạn của nó. Thật vậy, chúng ta có thể phân biệt ba cách khác nhau mà nền dân chủ làm phong phú thêm cuộc sống của công dân. Đầu tiên, tự do chính trị là một phần của tự do con người nói chung, và việc thực hiện các quyền dân sự và chính trị là một phần thiết yếu của cuộc sống tốt đẹp của các cá nhân với tư cách là những con người xã hội. Sự tham gia chính trị và xã hội có giá trị nội tại (intrinsic value) đối với cuộc sống và hạnh phúc của con người. Việc bị ngăn cản không được tham gia vào đời sống chính trị của cộng đồng là một sự mất mát lớn.

 

(Trích từ bài viết cùng tên, đăng trên Journal of Democracy 10.3 1999, tr. 3-17)

 

---------------------------------

Xem những bài gần đây nhất:

·        Học giả lớn John Stachel về Einstein qua đời (9. 5. 2025) 11 Tháng Sáu, 2025

·        Hồi ức đến Tương lai (Trần Văn Thọ): Một luồng gió mới 8 Tháng Sáu, 2025 (có cập nhật 14/6/2025)

·        Nghệ thuật Thời kỳ Edo Nhật Bản (1615-1868) 8 Tháng Sáu, 2025 (có cập nhật)

·        Chủ nghĩa Khắc kỷ (Stoicism) 30 Tháng Năm, 2025

·        Marcus Aurelius: Hoàng đế triết gia La Mã 30 Tháng Năm, 2025

·        Hồi ức về Tương lai (Trần Văn Thọ) 24 Tháng Năm, 2025

·        Nhớ Max Planck (2025) 21 Tháng Năm, 2025

 

prev                                                                                                            next





No comments:

Post a Comment