Sunday, May 28, 2023

HENRY KISSINGER : TÊN TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM và NHÂN LOẠI (Việt Linh / Cali Today)

 



Henry Kissinger: Tên tội đồ của dân tộc Việt Nam và nhân loại

Việt Linh  /  Cali Today[GH1] 

May 28, 2023

https://www.baocalitoday.com/hoa-ky/henry-kissinger-ten-toi-do-cua-dan-toc-viet-nam-va-nhan-loai.html

 

Nhân dịp ngày tên tội đồ của dân tộc Việt Nam và của nhân loại, Henry Kissinger thọ đúng 100 tuổi ngày hôm qua, thứ Bảy 27 tháng 5 và ngày lễ Memorial Day ở Hoa Kỳ vào ngày mai 29 tháng 5, để nhớ về những người lính Mỹ và Việt Nam đã nằm xuống trong cuộc chiến tại Miền Nam Việt Nam, hôm nay tôi viết một bài tổng hợp, rút gọn nhất có thể để nói về kẻ khốn kiếp, quỷ quyệt người Mỹ gốc Do Thái, một chính trị gia gian xảo, bịp bợm, Henry Kissinger.

 

Đây chỉ là nỗ lực tìm hiểu về bộ mặt thật của Kissinger liên quan đến chiến tranh Việt Nam.

Đa số tin tức trong bài bình luận này đến từ những tài liệu tối mật của CIA và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) sau khi được giải mật và nhiều tài liệu của nhiều trí thức người Việt khắp nơi.

 

Mời xem video bài bình luận qua Youtube

 

Heinz Alfred Kissinger, sau này khi sang Mỹ đổi tên thành Henry Kissinger, sanh ra trong một gia đình người Đức gốc Do Thái năm 1923 tại thành phố Fürth trong vùng Bavaria, nước Đức. Năm 1938, gia đình ông di cư qua New York để lánh nạn Đức Quốc Xã, ông nhập quốc tịch Mỹ năm 1943 và ông bị động viên gia nhập Quân Đội Mỹ.

 

Sau khi giải ngũ, Kissinger vào học ở Harvard và đậu tiến sĩ hạng Ưu. Cuộc tranh cử tổng thống giữa Hubert Humphrey và Richard Nixon năm 1968 là cơ hội giúp Kissinger chính thức bước vào con đường hoạt động chính trị với biến cố “October Surprise”. Theo thuật ngữ chính trị của Mỹ, “October Surprise” được xem là những biến cố, tin tức xảy ra vào tháng 10 có tác dụng gây ảnh hưởng đáng kể tới kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào ngày thứ ba đầu tiên của tháng 11.

 

Kissinger là người mưu trí và nhiều tham vọng muốn tập trung quyền hành trong tay. Theo đề nghị của Kissinger, Nixon cải tổ Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) đã được thành lập năm 1947, trở thành cơ quan an ninh tối cao, kiểm soát tất cả các vấn đề ngoại giao, quốc phòng và CIA do Kissinger đứng đầu. Những trưởng cơ quan như Giám Đốc CIA, Tổng Trưởng Tư Pháp, Thứ Trưởng Ngoại Giao, Thứ Trưởng Quốc Phòng, và Chủ Tịch Hội Đồng Tham Mưu Trưởng Liên Quân đều trực thuộc Kissinger. Trong cương vị điều khiển Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Kissinger lần lần lấn áp Ngoại Trưởng William Rogers khiến ông này từ chức ngày 16 tháng 8 năm 1973. Kissinger được đề cử làm Ngoại Trưởng thay Rogers.

 

Cũng cần lưu ý Kissinger là người di dân thế hệ thứ nhứt đầu tiên (sinh đẻ ở ngoại quốc) đảm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng Ngoại Giao và duy nhứt trong lịch sử Hoa Kỳ cùng đứng đầu Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.

 

Với sự kiêm nhiệm này, Kissinger được xem như nhân vật thứ nhì tại Tòa Bạch Ốc vì Kissinger có quyền sàng lọc các tin tức về an ninh, quốc phòng và ngoại giao trước khi trình lên Tổng Thống với tư cách thi hành hay cố vấn. Với sự tập trung quyền lực lớn như vậy, Kissinger đã trở thành một “Tổng Thống ngầm” mà không phải chịu trách nhiệm với ai cả.

 

Từ năm 1968 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Kissinger đã điều khiển chiến tranh Việt Nam bằng sự gian dối với Quốc hội, với người dân Mỹ, với Đồng Minh theo phương thức:

Kissinger cố vấn và đề nghị để các Tổng thống Richard Nixon, Gerald Ford ra lệnh thi hành và chịu trách nhiệm. Đó là sự quỹ quyệt tuyệt vời của Kissinger.

 

Trong 15 năm chiến tranh Việt Nam từ 1960-1975, Kissinger đã trực tiếp điều khiển bộ máy chiến tranh Mỹ trong 8 năm dưới thời hai tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford và ông ta cũng là người đã xóa tên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam.

 

Về vai trò của Kissinger trong Hòa đàm Ba Lê, Kissinger đã lộ mặt một chính trị gia gian xảo, bịp bợm, tàn nhẫn và bị cáo buộc là một tội phạm chiến tranh với một số tội trạng điển hình như:

 

– Cố ý giết thường dân tại Việt Nam, Cao Miên, Lào với vụ ném bom rải thảm của Hoa Kỳ vào Cao Miên (còn gọi là Campuchia) từ năm 1969 đến năm 1973 đã khiến Henry Kissinger, phải chịu trách nhiệm về những cái chết của khoảng 150.000 người Cao Miên vô tội. Thời đó, báo chí gọi đó là “Những cánh đồng chết chóc của Kissinger,”. Con số này cao gấp sáu lần số người được cho là đã thiệt mạng trong các cuộc không kích của Mỹ ở Afghanistan, Iraq, Libya, Pakistan, Somalia, Syria và Yemen trong 20 năm đầu tiên của cuộc chiến chống khủng bố. Khi được hỏi ông nghĩ thế nào về tội lỗi của mình đối với những cái chết này, Kissinger trả lời một cách mỉa mai và từ chối đưa ra câu trả lời.

 

– Đồng lõa tội tàn sát tập thể dân Bangladesh.

 

– Chủ mưu đảo chánh và giết một lãnh tụ ở Chile.

 

– Chủ mưu và thực hiện tội diệt chủng tại Đông Timor.

 

– Tham gia vào việc bắt cóc và giết một ký giả người Hi Lạp ở Washington DC.

 

Theo ước tính của những chuyên gia viết lịch sử, đôi bàn tay của henry Kissinger ít ra cũng đã nhuốm máu của hơn 3 triệu người đủ mọi sắc tộc và quốc khác nhau, trong đó có 223.748 người Việt, gồm có dân thường và những người lính. Henry Kissinger đã luôn né tránh các câu hỏi về vụ đánh bom và thảm sát ở Việt Nam, Lào, Campuchia trong nhiều thập niên và đã dành nửa cuộc đời để nói dối về vai trò của mình trong các vụ diệt chủng tại các quốc gia đó.

 

Nhiều tổ chức nhân quyền còn đòi lôi cổ tên đại bịp lừa đảo chính trị gốc Do Thái này ra trước Tòa Án Quốc Tế, để đền tội cho nhiều chục triệu người Trung Đông và Đông Dương, tan nhà mất nước. Cuối cùng năm 2010, Kissinger xác nhận là mình đã bán đứng VNCH cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế.

 

Với những tội trạng này, Kissinger lẽ ra phải được đưa ra xét xử tại một Tòa án quốc tế. Nhưng những tội của Kissinger mà tôi vừa nói không phải là tất cả, với những tài liệu lần lượt được giải mật, thế giới càng ngày càng khám phá nhiều tội ác tầy trời của Kissinger.

 

Sau gần 5 năm đàm phán với 204 lần công khai và 24 lần mật đàm giữa Mỹ và Cộng sản Bắc Việt để giải quyết cuộc chiến Việt Nam, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris ra đời gồm có chữ ký của Ngoại trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại trưởng Cộng sản Bắc Việt Nguyễn duy Trinh, Ngoại trưởng Chính Phủ Lâm Thời Cộng hòa Miền Nam tức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Nguyễn thị Bình, và Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần văn Lắm.

 

Qua bản thỏa hiệp, chánh phủ của Nixon tự xem như đã đạt được hòa bình trong danh dự. Nhưng trên thực tế, Hiệp định Paris là một cuộc bại trận nhục nhã của Mỹ, một bản văn của Nixon-Kissinger bán đứng miền Nam cho Cộng Sản để trao đổi những quyền lợi thực dụng giữa Mỹ và khối Cộng Sản. Henry Kissinger, người đã được trao giải Nobel Hòa bình năm 1973 nhưng báo chí mỉa mai rằng, đó là phần thưởng dành cho một tên đồ tể quốc tế hợp pháp.

 

Hiệp định Paris tháng 1, 1973 do Kissinger dàn dựng đã đưa Miền Nam Việt Nam vào cửa tử vì đã cho phép Cộng Sản để lại hơn 150.000 quân lính tại miền Nam trong khi quân đội Mỹ bắt buộc phải rút đi. Miền Nam bị xâm chiếm, Cao Miên sụp đổ và Lào bị nhuộm đỏ toàn diện. Chỉ trong vòng ba tháng mà Hoa Kỳ mất ba nước đồng minh. Lần đầu tiên cả thế giới nhận thấy sức của Mỹ không nghĩa lý gì trước sự bành trướng của Cộng Sản. Chỉ đến năm 1973, trong vụ bê bối Watergate, các cáo buộc đánh bom bí mật mới nổi lên, thúc đẩy nỗ lực đầu tiên luận tội Nixon với lý do ông đã tiến hành một cuộc chiến bí mật ở một quốc gia trung lập vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ. Cuối cùng, điều khoản luận tội đó đã bị bỏ phiếu vì lợi ích chính trị. Tuy nhiên, trước những cáo buộc khác, Nixon đã từ chức. Công chúng Mỹ đã mệt mỏi vì chiến tranh lại thêm vụ bê bối Watergate đưa tới việc ông Nixon phải từ chức vào tháng 8, 1974. Nhưng Kissinger thì lại bình an vô sự.

 

Đường lối ngoại giao của Kissinger đã đưa tới hậu quả là cộng sản đã thống nhứt nước Việt trong nghèo đói, bất công và độc tài trên toàn cỏi Việt Nam từ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiến tranh Việt Nam đã để lại bao thương đau cho cả mọi phía mà người chịu trách nhiệm phần lớn là Kissinger bởi những hành động gian hiểm, lừa đảo với mục đích mang lại quyền lợi cho cá nhân ông ta và phe nhóm của ông ta.

 

Theo các sử gia cận đại, thì cái hệ lụy bi thảm mà Hoa Kỳ hứng chịu ngày nay khi phải đối đầu với Hồi giáo cực đoan, Iraq, Iran, Trung Cộng, Bắc Hàn.. cũng như sự xem thường trắng trợn của các đồng minh trung thành lâu đời như Pháp, Đức, Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Hàn, Phi luật Tân, Nam Dương.. phần lớn đều do chính sách sai lầm có chủ ý của Henry Kissinger khi nắm quyền, hoàn toàn chỉ nghĩ tới Do Thái và những nhà tài phiệt tư bản.

 

Sự thù địch khinh bỉ của Kissinger đối với Việt Nam biểu lộ một cách lố bịch. Ron Nesson, Phụ tá báo chí của Tổng Thống Gerald Ford đã kể trong hồi ký của ông là khi nghe tin Đà Nẳng thất thủ và dân chúng bỏ chạy về phía Nam thì Kissinger đã nguyền rủa rằng: “Why don’t people die fast? The worst thing that could happen would be for them to linger on” – (Xin tạm dịch là: «Sao cái bọn này không chết lẹ đi cho rồi. Điều tệ hại nhứt là chúng cứ sống dai dẳng mãi»)

 

Thực ra trước ngày Hiệp định Ba Lê được ký kết rất lâu, Henry Kissinger đã quyết định bỏ rơi miền Nam Việt Nam được xem là tiền đồn của Thế Giới Tự Do từ giữa thập niên 1950. Những tài liệu giải mật cho thấy trong buổi họp mặt với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông vào tháng 2 năm 1972, Henry Kissinger đã công khai nói cho giới lãnh đạo cao cấp Trung Cộng biết rằng, nếu Hoa Kỳ có thể chấp nhận sống với một nước cộng sản rộng lớn như Tàu thì Hoa Kỳ cũng có thể chấp nhận sống với một nước cộng sản nhỏ bé như Việt Nam.

 

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của miền Nam Việt Nam, tuy không phải là một chính trị gia có nhiều xảo thuật như Kissinger nhưng có thừa thông minh hơn Kissinger về sự am tường chủ nghĩa cộng sản, do đó ông đã phản đối sự nhượng bộ nguy hiểm của Mỹ, bằng cách đòi hỏi nhiều tu chính quan trọng trong Hiệp định Ba Lê. Tuy nhiên, dưới áp lực và đe dọa của Mỹ về viễn cảnh bỏ rơi Việt Nam, Tổng thống Thiệu không còn chọn lựa nào khác phải chấp nhận Hiệp định Ba Lê nhưng với sự “cam kết trên giấy trắng mực đen” là Tổng thống Nixon sẽ áp dụng những biện pháp quân sự mạnh nếu Bắc Việt không tôn trọng Hiệp ước. Và lịch sử đã cho thấy những cam kết của Nixon chỉ là sự lừa dối trắng trợn.

Người Mỹ đã nói dối và bỏ rơi người dân miền Nam Việt Nam, và sau này người Mỹ cũng đã nói dối và bỏ rơi người dân Afghanistan, người Kurd ở Syria và tương lai, có thể sẽ là người dân Ukraine.

Trong bản cáo trạng năm 2001, Christopher Hitchens kêu gọi truy tố Kissinger “về các tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người, và các tội chống lại luật pháp thông thường hoặc thông lệ hoặc quốc tế, kể cả âm mưu giết người, bắt cóc. , và tra tấn” từ Argentina, Bangladesh và Chile đến Đông Timor, Lào và Uruguay, đặc biệt là ở Campuchia và Việt Nam. Kissinger đã sống ngoài vòng luật pháp gần nửa thế kỷ vì được nước Mỹ che chở, bảo vệ và đây cũng chính là lý do tại sao Mỹ không hề muốn là thành viên của Tòa án Hình sự Quốc Tế ICC. Đại diện của Kissinger đã viện vào lý do tuổi tác nhưng các tổ chức dân quyền đã khẳng định: “Chúng tôi tin rằng tuổi tác không bao giờ là rào cản đối với công lý. Những kẻ phạm tội hoặc cho phép tội ác chiến tranh đều phải chịu trách nhiệm, bất kể tuổi tác của họ, miễn là họ có năng lực tinh thần để được xét xử công bằng, và trường hợp của Kissinger không thể là một ngoại lệ.”

 

Lịch sử đã ghi lại những thảm trạng đã xảy ra sau ngày Sài gòn thất thủ. Hơn một triệu quân nhân và công chức của chính phủ miền Nam đã bị tù đày từ vài năm đến hàng chục năm, trong đó hàng ngàn người đã chết trong các trại tù cải tạo hay còn gọi là trại lao động khổ sai. Tài sản của gia đình họ bị tịch thâu và họ đã bị đuổi ra khỏi nhà rồi đưa lên “vùng kinh tế mới” để sống trong cảnh bần cùng. Con cháu họ bị cấm không được đi học, bị đàn áp, phân biệt không cho tham gia thi cử. Quyền tư hữu bị tước đoạt.

 

Ròng rã 48 năm qua, dân tộc Việt đã bị ép buộc sống dưới sự thống trị của người cộng sản. Việt Nam ngày nay với dân số gần 100 triệu người, đứng thứ 14 trên thế giới về dân số nhưng ngược lại vẫn còn là một trong những nước nghèo khổ nhứt. Thể chế cai trị lại đầy áp bức với những vi phạm nhân quyền trắng trợn, tham nhũng lan tràn và lạm dụng quyền thế khủng khiếp thường thấy trong một chế độ độc tài.

 

Dù chiến tranh đã chấm dứt, cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục thao túng lịch sử, bịa đặt những huyền thoại vu vơ để làm dao động các thế hệ mới lớn, mục đích để chạy trốn tội ác thiên cổ đã gây ra trong mấy chục năm cuộc chiến tương tàn Nam Bắc. Riêng Hoa Kỳ, đã không ngớt biện minh để tìm cách thoát ra cái hội chứng “Vietnam syndrom”, trong đó chính họ là kẻ phản bội và thủ phạm của màn kịch trên là Nixon-Kissinger. Một điều tàn nhẫn khác của người Mỹ, đó là sự vu cáo trắng trợn, đổ tội cho đồng minh hèn nhát không chịu chiến đấu nên phải mất nước. Thật sự, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến, nếu không có sự chiến đấu can trường của QLVNCH trên khắp các chiến địa, liệu một số người Mỹ, kể cả ông Đại sứ có còn mạng để thoát khỏi Sài Gòn hay không?

 

Mỗi năm, vào dịp ngày Quốc Hận 30 tháng 4 hay còn gọi là Tháng Tư Đen, chúng ta tưởng nhớ ngày Sài gòn thất thủ và không thể quên vai trò quan trọng của kẻ đốn mạt Kissinger trong biến cố lịch sử bi đát của dân tộc Việt Nam.

 

Phương thức Henry Kissinger dùng để chấm dứt chiến tranh Việt Nam là cả một thảm kịch cho dân tộc Việt Nam và một vết nhơ trong lịch sử 200 năm của quốc gia Hoa Kỳ. Đây là thời điểm vô tiền khoáng hậu mà nước Mỹ đã không giữ trọn lời cam kết của mình và không chu toàn lời hứa bảo vệ đồng minh trước kẻ thù.

 

Đã 48 năm trôi qua, nhưng hai câu nói của hai nhân vật, một Mỹ một Việt nam đã ghi sâu vào nhận thức của người dân Miền Nam Việt Nam. Như Henry Kissinger, người đã có câu châm biếm nổi tiếng rằng: “Trở thành kẻ thù của Hoa Kỳ có thể nguy hiểm, nhưng làm bạn với Hoa Kỳ thì chỉ có chết.” Và lời tuyên bố cay đắng, đầy nước mắt của ông Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn ngay lúc xe tăng Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập trưa 30-4-1975: “Làm đồng minh với Mỹ chỉ có chết, tốt hơn nên làm bạn với cộng sản, ít ra còn được che chở và giúp đỡ”. Đây là lời cảnh tỉnh tha thiết nhất cho những ai còn muốn nhờ ngoại bang để quang phục đất nước, với câu nói này, tôi ước gì Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelensky nghe và hiểu được ý nghĩa của câu nói này của một người trong cuộc chiến. Và như chúng ta cũng thấy trong cuộc chiến Ukraine, Kissinger cũng gợi ý người dân Ukraine nên đầu hàng, nhượng lãnh thổ để chấm dứt chiến tranh. Một quan điểm được Donald Trump và ủng hộ viên MAGA của ông ta tán thành nhưng Ukraine cực lực bác bỏ. Và đây là nhận định đốn mạt nhất thời cận đại của Henry Kissinger.

 

Đối với những quốc gia châu Á ngày nay lo ngại về quyền lực của Trung Quốc, hãy nhìn những bài học của Việt Nam, người Kurd ở Syria, người Afghanistan, họ có thể dựa vào nhưng đừng quá phụ thuộc vào người Mỹ. Họ phải tự bảo vệ chính mình, họ chỉ có thể phụ thuộc Mỹ tới mức độ nào đó mà thôi. Điển hình trước mắt là các quốc gia Châu Âu, họ đang tự đứng lên bằng đôi chân của chính họ, họ không còn niềm tin vào một nước Đồng Minh, bởi vì họ biết là nước Mỹ vẫn còn rất nhiều những người giống như Henry Kissinger, sẵn sàng bán đứng anh em, đồng minh bằng mọi giá không biết xấu hổ.

 

Chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến đầu tiên mà người Mỹ phải bị thất bại, để lại những cảm xúc nặng nề với hội chứng “Vietnam syndrom”, nhiều người Mỹ đã bị mất đi sự kiêu hãnh vì thất bại. Hành động của Henry Kissinger là nguyên nhân chính cho sự bại trận của Việt Nam Cộng hòa vì đã tạo sự chuyển biến về thế trận, quyền lực, khiến Việt Nam Cộng hòa bị bất lợi và thua trận vì sự phản bội của nước Mỹ, những quân đội Việt nam Cộng Hòa không đầu hàng. Nói một cách cay đắng hơn, là chính phủ miền Nam Việt Nam đã bị bức tử trong tủi nhục.

 

VNCH đã là lịch sử, là quá khứ không thể quay lại, nhưng sự phản bội của Henry Kissinger đã không bị truy cứu mà lại biến thành một cách ứng xử quen thuộc của ngoại giao Hoa Kỳ. Vì lợi ích riêng họ dễ dàng khấu đầu trước các thế lực độc tài bất chấp số phận các dân tộc và uy tín của chính Hoa Kỳ. Do cách ứng xử này mà 50 năm sau Hiệp Định Paris, phong trào dân chủ trên thế giới bị tổn hại sâu sắc. Các nước nhỏ không muốn đi vào con đường tăm tối của chủ nghĩa cộng sản nhưng cũng không thể hoàn toàn tin vào sự hợp tác của Hoa Kỳ với rủi ro có thể bị trở thành một VNCH khác. Vụ Hoa Kỳ đàm phán với Taliban sau lưng chính phủ hợp pháp ở Kabul trong thời gian cuối của chính quyền Donald Trump rồi quyết định rút khỏi Afghanistan là một minh chứng, là sự lặp lại hoàn hảo thủ đoạn tráo trở mà Henry Kissinger thực hiện với miền Nam Việt Nam 50 năm trước.

 

Henry Kissinger chủ trương một học thuyết ngoại giao thực dụng, sẵn sàng thỏa hiệp với độc tài miễn có lợi, trái ngược với hệ giá trị tự do dân chủ của Hoa Kỳ. Nước Mỹ cần gột rửa những quan điểm thực dụng đó để lấy lại niềm tin của cộng đồng thế giới và thoát ra khỏi hội chứng của cuộc chiến Việt Nam.

 

Bà Ngô Đình Nhu đã có một câu nói đã đi vào lịch sử: “Chẳng thà có 10 kẻ thù vẫn an toàn hơn là có một người bạn như Henry Kissinger”.

 

Lời kết:

 

Chúng ta đòi hỏi lịch sử và nhân dân thế giới phải trả lại sự công bằng và danh dự cho Quân Dân VNCH, từ người thứ dân cho đến các cấp lãnh đạo Quốc-gia. Từ trong nước, cộng sản Việt Nam hãy chấm dứt những luận điệu tự phỉ nhổ mình bằng cách gọi các vị lãnh đạo Quốc-gia, các tướng lãnh của VNCH bằng thằng nọ, thằng kia. Cuộc “đổi đời” năm 1975 đã biến “THẰNG thành ÔNG” và đem “ÔNG xuống làm THẰNG” nay đã chấm dứt rồi, vì đó là cái thang giá trị của một xã hội Việt Nam văn minh đạo đức truyền thống, điều này phải được tái lập để làm nền tảng cho một nước Việt Nam tốt hơn cho thế hệ mai sau.

 

Việt Linh, 28.05.2023

 



No comments:

Post a Comment