Văn
học Việt Nam Cộng Hòa: 20 năm "chói sáng" và "huy hoàng"
Quốc Phương, cộng tác viên RFA Tiếng Việt từ London
2023.04.27
Nền văn học
của Việt Nam Cộng Hòa trải dài hai thập kỷ ở miền Nam Việt Nam trước đây xứng
đáng được đánh giá là một chương sử “chói sáng” và là một thành tựu “rất huy
hoàng” trong toàn lịch sử văn học Việt Nam và thời kỳ hiện đại, một ý kiến từ
trong giới văn học, nghệ thuật và báo chí độc lập tại Việt Nam nêu quan điểm với
Đài Á Châu Tự Do hôm 26/4/2023.
Nhà thơ Hoàng Hưng
trong một sự kiện hồi tháng 01/2023 tại đường sách TPHCM, phát biểu về cuốn
sách "Chỉ tại con chích chòe" và tác giả sách Dương Tường . họa sỹ Trần Nguyệt LâM
“Cũng như tất cả những người yêu văn học mà không có
định kiến gì về chính trị, tôi nghĩ rằng mấy mươi năm của nền văn học của Việt
Nam Cộng Hòa phải nói là một chương sử quá chói sáng trong lịch sử của nền văn
học Việt Nam nói chung và văn học hiện đại Việt Nam nói riêng,” từ Sài Gòn, nhà thơ, dịch
giả, nhà báo Hoàng Hưng chia sẻ nhận định trên quan điểm riêng với RFA Tiếng Việt,
trong dịp 48 năm biến cố 30/4/1975 của Việt Nam đang được đánh dấu.
Theo nhà thơ Hoàng Hưng, nền văn học Việt Nam
Cộng Hòa vốn trải dài trong giai đoạn từ 1954-1975 có kích thước, tầm vóc “rất
lớn” với ít nhất năm đặc điểm mà theo ông là nổi bật.
“Thứ nhất, đó là một thời kỳ mà văn học
phát triển rất mạnh mẽ và so sánh kể cả với văn học thời kỳ tiền chiến, nền văn
học này cũng vượt trội hẳn, có thể thấy ngay qua số lượng tác giả được ghi nhận
có tên tuổi cũng tới vài trăm, hay là về số lượng các tạp chí chuyên về văn học,
cũng có hàng chục tạp chí trong số đó có nhiều tờ rất nổi tiếng. Cũng từ đó, có
thể thấy tính chuyên nghiệp của nền văn học trong thời kỳ này rất cao. Chuyên
nghiệp ở chỗ nào, tôi chỉ lấy một ví dụ nhỏ là số lượng tác phẩm của từng tác
giả rất lớn…
Đặc điểm thứ hai là sự phong
phú, đa dạng, rất nhiều giọng, nhiều chiều, nhiều tư tưởng, nhiều quan điểm, mà
có cái hay là đều chung sống hòa bình với nhau, không hề có sự đố kị hay là đàn
áp nhau. Một thí dụ quan trọng nhất là ở tư tưởng chính trị chẳng hạn, có thể
thấy trong hàng ngũ nhà văn miền Nam cũng đa dạng…
Về phương pháp, sáng tác và phong cách cũng thấy rất
đa dạng, phong phú, vẫn còn sót lại của chủ nghĩa lãng mạn, rồi dân dã, sự trở
lại của cổ phong, rồi tả thực, siêu thực v.v…, tức là có đủ các phương pháp và
phong cách. Chỉ cần nói về thơ chẳng hạn và nêu vài cái tên đã thấy sự khác
nhau ghê gớm thế nào, ví dụ Thanh Tâm Tuyền, đến Tô Thùy Yên, Nguyễn Đức Sơn, đến
Bùi Giáng, đến Nguyên Sa, rồi Phạm Thiên Thư. Có thể thấy sự khác nhau là ghê gớm,
từ thơ tự do, thơ cổ phong, thơ lục bát, thơ văn xuôi, chung sống thoải mái.
Đặc điểm thứ ba, đây là một nền văn học thấm đẫm tinh thần tự do và nhân bản,
không mang một ý đồ phục vụ chính trị nào, có thể nói nhiều lúc tạo cảm tưởng
là “phi chính trị” … Tinh thần phi chính trị như thế đương nhiên có nhiều yếu tố
có lợi cho đối thủ. Trong khi ngược lại, ở miền Bắc là một nền văn học hoàn
toàn tuyên truyền, tuyên truyền cho chiến tranh, chiến đấu mà có người còn dùng
từ thậm xưng lên là một nền “văn học trại lính”. Tinh thần của văn chương Việt
Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ này là như thế, không có chính
trị, nhưng tất cả những gì thuộc về con người thì đều được tự do bộc lộ, không
có một ngăn cản, hạn chế gì.”
"Giai
Thoại Làng Nho" của Lãng Nhân do nhà Nam Chi Tùng Thư xuất bản tại
Sài Gòn năm 1964 và cuốn "Giai Thoại Văn Chương Việt Nam" của Thái
Bạch do nhà sách Xuân Thu xuất bản năm 1958. Ảnh: Quốc Phương/RFA
Một nền văn học tự do, nhân bản đúng nghĩa
Tới đây, trên tư cách tự nhận là một người có
điều kiện đọc khá nhiều về văn học Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn 1954-1975 mà
không phải là một nhà lý luận, hay phê bình, nhà thơ Hoàng Hưng mở một dấu ngoặc
về vấn đề kiểm duyệt, ông so sánh điều này giữa hai nền văn học ở hai miền với
hai chế độ chính trị - xã hội đối nghịch nhau trên mảnh đất Việt Nam thời kỳ
đó, ông nói:
“Trong ý này, có một điều liên quan sự kiểm duyệt, ở
miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa có một hệ thống kiểm duyệt công khai, nhưng nhiều
nhà văn thuật lại nói hệ thống này chỉ kiểm duyệt những gì quá bất lợi cho
chính quyền, mà người ta cũng chỉ “bỏ đi một số dòng, câu chữ”, hay một hai tác
phẩm không được cho xuất bản, nhưng làm rất công khai và người ta có quyền khiếu
nại về chuyện đó, chứ không như là ở văn học miền Bắc thời đó nói rằng không có
kiểm duyệt.
Nhưng thực ra hệ thống kiểm duyệt vô cùng chặt chẽ với
sự kiểm duyệt bằng cả một hệ thống con người, từ Ban Tuyên giáo cho đến công
an, cho đến Bộ Văn hóa, và quan trọng hơn, điều này làm cho các nhà văn lâm vào
một tình trạng gọi là phải tự kiểm duyệt, nếu không sẽ không an toàn trong đời
sống, nên khi từ ngòi bút họ viết ra, họ đã phải tự kiểm duyệt rồi, không thể
làm điều gì mà trái với tư tưởng, đường lối của đảng Cộng sản cả. Cho nên khó
có một nền văn học tự do và nhân bản đúng nghĩa.”
Nói tiếp về các đặc điểm mà cũng có thể được
coi là những giá trị, là di sản nổi bật của nền văn học Việt Nam Cộng Hòa trong
hai thập niên từ 1954-1975, nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng, nhận định:
“Đặc điểm thứ tư của nền văn
học thời kỳ này là có một sự ảnh hưởng rất mạnh mẽ về triết học, về triết lý,
đó là điều mà ngay ở thời kỳ văn học gọi là tiền chiến cũng chưa rõ… Những ảnh
hưởng của triết học phương Tây quá rõ, như là hiện sinh, rồi đến hiện tượng luận,
cho đến phân tâm học, có ảnh hưởng đến các nhà văn rất là lớn, hay chưa hẳn là
triết học, nhưng những tư tưởng triết lý sống của phương Tây lúc ấy cũng du nhập
rất mạnh, như tư tưởng nữ quyền, giải phóng phụ nữ…
Điều đó có tác động rất rõ đối với văn học Việt Nam
Cộng Hòa, với sự hình thành mạnh mẽ một lớp nhà văn nữ rất là nổi, từ Túy Hồng,
rồi Nguyễn Thị Hoàng, Thụy Vũ v.v… Đấy là đặc điểm khác với văn học miền Bắc và
đương nhiên nó khác cả với thời kỳ tiền chiến nữa, văn học thời tiền chiến chưa
có những hiện tượng như thế.”
Nhà thơ Hoàng Hưng tại chi nhánh báo Văn Nghệ ở TPHCM năm 2002. Nguồn:
nhiếp ảnh gia Dương Minh Long
Thấm đẫm tính triết học và chất lượng rất cao
Theo nhà thơ Hoàng Hưng, yếu tố tư tưởng và
triết học phương Đông, trong đó có Phật giáo cũng có tác động và in dấu ấn đối
với văn học Việt Nam Cộng Hòa trong hai thập niên lịch sử trước 30/4/1975, ông
nói tiếp:
“Thế nhưng cũng không phải chỉ có triết học phương
Tây, mà một điều thứ hai không kém phần là triết lý Phật giáo, cũng trong giai
đoạn này, những sách về Phật giáo ra mắt rất nhiều, có thể nói là một cuộc Phục
hưng về Phật giáo trong lịch sử của Việt Nam. Tức là từ các sách của những nhà
xuất bản như Lá Bối của thày Thích Nhất Hạnh, rồi rất nhiều những sách kinh,
sách Phật giáo, tôn giáo được dịch thuật, như là Krishnamurti, Osho, rồi
Suzuki.
Cho nên những điều này tác động rất lớn đến đời sống
tinh thần của người miền Nam và đương nhiên tác động đến các nhà văn mà chúng
ta đã biết, có rất nhiều tác giả nổi tiếng ở miền Nam lúc bấy giờ được ưa chuộng,
mà đã chuyên chở được tinh thần và ý thức Phật giáo như là Thích Nhất Hạnh, Tuệ
Sĩ, Phạm Thiên Thư, và ngay cả lời bài hát của Trịnh Công Sơn cũng là văn học,
cũng là thơ mà thấm đẫm triết lý Phật giáo.”
Về đặc điểm thứ năm của nền văn học Việt Nam Cộng Hòa, ông Hoàng Hưng nói tiếp:
“Đó là nó tiếp tục tiếp thu được những trào lưu nghệ
thuật phương Tây đương thời, điều này tôi cho là sự tiếp tục của nền văn học
giai đoạn thời kỳ tiền chiến… Đến thời kỳ sau năm 1954, các tác giả mà phần lớn
là những người có Tây học, đọc được sách ngoại ngữ, và dịch thuật rất nhiều, đã
có sự tiếp nhận được rất nhiều những phương pháp nghệ thuật, các trào lưu nghệ
thuật mới lúc đó của phương Tây như là siêu thực, hiện sinh, phi lí, hay là
dòng ý thức, điều này rất rõ trong nhiều tác phẩm.
Đến đây, tôi muốn nói đến một bộ phận nữa đó là sách
dịch, bộ phận rất lớn, có thể nói đây là một thời kỳ dịch thuật rất quý báu đối
với đời sống tinh thần của người ở miền Nam nói chung, chứ không chỉ nói riêng
đối với văn học, tức là rất nhiều sách về triết học, xã hội học, khoa học xã hội,
nhân văn, tiểu thuyết của phương Tây được dịch ra ồ ạt… Số có chất lượng rất là
đông đảo và có thể nói đây là một kho báu đối với chúng tôi, là những người gọi
là nhà văn, nhà báo, người viết lách ở miền Bắc mà sau 30/4/1975 vào Nam, mà ra
các ‘chợ sách vỉa hè’ thì có thể ôm không biết bao nhiêu sách dịch như vậy về,
còn ở miền Bắc, do hoàn cảnh chiến tranh, cũng chỉ dịch được một số tác phẩm,
không nhiều lắm, mà chủ yếu từ tiếng Nga là nhiều”.
"Lều
Chõng" của Ngô Tất Tố, in lần thứ ba do nhà Mai Lĩnh xuất bản, năm
1958, do nhà sách Tân Sinh đứng ra phát hành; và Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của
Huình-Tịnh Paulus Của (Dictionnaire Annamite), Tome I (từ A-L) in tại nhà
in Văn Hữu, Chi Lăng, Gia Định, 1974. Ảnh: Quốc Phương/RFA
Đối xử của chính quyền Việt Nam gần đây với dòng
văn học này
Bình luận về đối xử của chính quyền của Đảng Cộng
sản và nhà nước Việt Nam đối với dòng văn học Việt Nam Cộng Hòa, trong dịp này
nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng đề cập một trong số nhiều tài liệu mà theo ông thể
hiện dường như bước đầu đã có sự dịch chuyển ít nhiều trong quan điểm, chính
sách và cách thức đối xử của nhà nước và chính quyền cộng sản Việt Nam, ông cho
hay:
“Nhận thức về nền văn học miền Nam Việt Nam trước
đây vẫn còn nhiều mơ hồ, thế nhưng dần dần qua mấy chục năm nay, đã có những
chuyển biến khá tốt, theo tôi, tuy vẫn còn nhiều e dè và lẻ tẻ. Gần đây tôi
tình cờ đọc được một bài báo cho thông tin rất thú vị ở trên báo Nhân dân cuối
tuần, số ngày 13/9/2016 viết về đề tài này, mà tôi xin trích dẫn lại nguyên văn
có đoạn viết như sau:
‘Nói chung trong khoảng 10 năm sau ngày giải phóng,
tinh thần cơ bản của các nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật là ngăn chặn,
chống, phê phán, đấu tranh, quét sạch văn hóa nô dịch, đồi trụy, lai căng; xóa
bỏ những xuất bản phẩm phản động, khiêu dâm; trừng trị nghiêm khắc những ai cố
ý vi phạm các quy định của Nhà nước…’
Kinh hoàng đến như thế, nhưng mà ở đoạn kết của bài
báo này, thì lại viết rằng: ‘…quan điểm chính thức được khẳng định hiện nay là,
ủng hộ việc đẩy mạnh nghiên cứu, chọn lọc phổ biến các giá trị đích thực của
văn học nghệ thuật miền nam trước 1975 trên tinh thần hòa hợp dân tộc để hàn gắn
vết thương, đoàn kết mọi người cùng nhìn về một phía, thực hiện hòa hợp dân tộc
bằng con đường văn hóa văn nghệ. Dĩ nhiên trên thực tế, câu hỏi về cách ứng xử
như thế nào đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật của các tác giả miền nam
trước 1975 là vấn đề khó có được câu trả lời cụ thể và thấu đáo.’”
Đưa ra bình luận thêm về quan điểm này của
chính quyền Việt Nam thông qua bài báo nói trên của báo Nhân Dân, cơ quan ngôn
luận, truyền thông của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhà thơ
Hoàng Hưng nói:
“Tác giả bài báo này ký tên là Hạnh Nguyễn mà không
biết là ai, nhưng điểm thú vị là ở câu cuối này, tức là về nguyên tắc họ nói
như vậy, tất nhiên phải có chỉ đạo ở một cấp cao hơn là báo Nhân Dân, báo này dẫu
sao cũng là tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản, nhưng nói như vậy, còn khi
xử lý trên những trường hợp cụ thể, tác giả, tác phẩm cụ thể, thì vẫn còn nhiều
rắc rối.
Tôi đơn cử dẫn chứng vào năm 2007, công ty sách
phương Nam ra được bốn tập sách của Dương Nghiễm Mậu, là nhà văn được coi là
tiêu biểu về phương pháp sáng tác mới mẻ, lập tức bị nhà văn Vũ Hạnh, cũng là
nhà văn ở miền Nam Việt Nam ngày xưa, với lập trường cộng sản, phê phán rất kịch
liệt, sau đó thì im thít, không ai dám in tiếp nữa. Hay sau đó cũng ra được tác
phẩm của nhà văn Lê Xuyên, rồi cũng bị phê phán ác liệt, dẫn đến cũng lại im
thít, không ái dám xuất bản tiếp nữa.
Hay ngay trường hợp của tôi mới đây cũng khá thú vị
để hiểu vấn đề, tức là gần đây vì các websites (trang mạng) bị tường lửa hết,
ngay cả Văn Việt là website của chúng tôi cũng bị tường lửa, tất cả các website
nói chung mà không phải của nhà nước, đều bị tường lửa nên rất khó vào. Cho nên
tôi có một ý tưởng là đưa lại hồ sơ văn học miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa lên
lại trên Facebook, đưa lại trên một chuyên trang về văn học nghệ thuật mà là
Facebook cá nhân.
Lập tức trang bị đánh phá ngay, bị chặn, không làm
sao có thể đưa lên được gì cả, rồi bị cảnh cáo, bị khóa danh khoản tùm lum, có
những cảnh cáo, cảnh báo rất buồn cười, bởi vì khi chúng tôi đăng đầu tiên mấy
tác phẩm của Phạm Thiên Thư, tức là mấy tác phẩm đã được xuất bản công khai ở
Việt Nam bây giờ, không phải là chính trị hay gì, mà lập tức tôi đã bị cảnh cáo
rằng đã ‘vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng’.
Tức là họ có một lực lượng nào đó, mà họ vẫn không
muốn cho sự xuất hiện của văn học miền Nam này một cách đàng hoàng; có thể lẻ tẻ
một hai cuốn thì được, còn khi đưa ra giới thiệu cả một kho về văn học miền Nam
là họ không cho!”
Tuy có những sự việc trên, trong dịp 48 năm
đánh dấu biến cố 30/4/1975 với Việt Nam, nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng vẫn đặt kỳ
vọng ở tương lai:
“Đến một lúc nào đấy mà tôi chưa biết, điều này sẽ
do những nhà chính trị cân nhắc, nhưng không thể không đặt nền văn học này
thành một mảng của văn học Việt Nam nói chung, mà không có phân biệt bắc, nam,
không phân biệt chính kiến, vì đó đúng là một thành tựu của văn học Việt Nam, một
thành tựu rất huy hoàng, cho nên nó sẽ được thành một mục nghiên cứu đàng
hoàng, khách quan và thấu đáo.
Tôi mong rằng một ngày nào đó gần đây sẽ như vậy và
trong giới nghiên cứu có rất nhiều người sẵn sàng làm việc đó, nhưng họ cũng phải
được tạo thuận lợi là sự bật đèn xanh của hệ thống chính trị như một điều tất
nhiên, còn nếu không họ sẽ không được cho phép xuất bản, giảng dạy và sẽ rất hạn
chế, không có ai bỏ công đi làm việc mà không rõ rằng có được công bố hay
không.
Nhưng tôi nghĩ rằng nếu mà người cầm quyền sáng suốt
và thực sự như là câu của báo Nhân Dân nêu lên rằng thực sự muốn một sự hòa giải,
hòa hợp, để toàn dân Việt Nam có thể chung sống với nhau, đoàn kết với nhau vì
những mục tiêu lớn, mà trước mắt của chúng ta là những vấn đề phải đối phó như
chủ quyền của đất nước, vấn đề phát triển về kinh tế, văn hóa như thế nào;
Nhất là những nhà lãnh đạo của Đảng mấy năm gần đây
phát biểu ‘rất đề cao văn hóa’, coi văn hóa như ‘động lực phát triển’, vấn đề
là phải nhìn văn hóa một cách toàn diện, không định kiến, không bị ý thức hệ dẫn
dắt, rằng văn học miền Nam chính là thành tựu của văn hóa dân tộc, phải xác định,
khẳng định như thế để mà nghiên cứu các giá trị của nó, để mà tiếp tục phát
huy, phát triển nền văn hóa, văn học nghệ thuật của Việt Nam,” nhà thơ, dịch giả, nhà báo Hoàng Hưng, thành viên sáng lập Ban vận
động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam, chia sẻ với RFA Tiếng Việt trên quan
điểm riêng hôm 26/4/2023 từ Sài Gòn.
No comments:
Post a Comment