27/04/2023
https://www.voatiengviet.com/a/ke-tu-ngay-31-thang-tu-/7068605.html
Vương Hồng Sển đã mô tả các hành động gọi là “Giải
phóng.” Sau khi kể chuyện cà kê Kép Tư Út hát bài Anh Khóa đời xưa, tiếp đến
chuyện bây giờ ngôi nhà Tổng Đốc Phương bị tháo gỡ bán qua Đài Loan, bỗng nhiên
cụ Vương viết...
https://gdb.voanews.com/EE454D9C-210B-440F-B680-76C4B8DEA978_w1023_r1_s.jpg
Vương Hồng Sển
chia sẻ được nỗi niềm của người dân miền Nam ngậm ngùi nghĩ tới “buổi sau ngày
30 tháng Tư!”
Xin nói ngay, không có ngày 31 tháng Tư trong
dương lịch, được Giáo Hoàng Gregory XIII áp dụng từ ngày 24 tháng Hai năm 1582.
Nhà văn Vương Hồng Sển là người sáng tác ra
câu “ngày 31 tháng Tư năm 1975,” trong hồi ký Nửa Đời Còn Lại. Cụ tự
giới thiệu là người “máu Hoa pha máu Việt đã bốn đời không nói được tiếng Phước
Kiến” (trang 21, Văn Nghệ, California, 1995). Cụ mang tên Hán Việt là Vương Hồng
Thạnh (hay Thịnh), nhưng khi làm giấy khai sanh viết thành Sển theo cách nói tiếng
Phúc Kiến. Cụ đã nổi tiếng với những cuốn Sài Gòn Năm Xưa, Thú
Chơi Sách, Thú Chơi Cổ Ngoạn và nhiều bài báo về các thú chơi này từ
trước năm 1975. Cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1993 ở Sài Gòn và bị kiểm
duyệt xóa bỏ rất nhiều, hai năm sau được nhà Văn Nghệ tái bản ở Mỹ, mới được đầy
đủ.
Năm 1993, đã ngoài 90 tuổi,
cụ vẫn gắng sức ngồi viết kể tiếp những chuyện đời mình qua cuốn Nửa Đời
Còn Lại (Văn Nghệ, California, 1996). Trong cuốn tự truyện thứ nhì
này, có hai chỗ Vương Hồng Sển nhắc đến ngày 31 (sic) tháng Tư năm 1975! Lần đầu,
cụ viết: “... tôi xin được lẩn thẩn lấy theo sức học đáy giếng mà luận việc
trên cao để được tỏ chút nỗi lòng một dân Nam thấp hèn buổi 31 – 4 – 1975.”
(trang 285). Nhắc lại: một dân Nam thấp hèn buổi 31 tháng Tư 1975!
Lần viết lộn thứ hai là đoạn Vương Hồng Sển
bàn về các cựu thần Nhà Lê đầu thế kỷ 19, qua câu thơ Truyện Kiều “hàng thần lơ
láo phận mình ra đâu!” khi họ phải làm bầy tôi triều Nguyễn. Cụ kể, “... tôi
đây đã trải cảnh chịu đựng sau ngày 31 – 4 – 1975 ở Sài Gòn, làm tôi bắt nhớ
Nguyễn Du năm 1802, ...” (trang 291) Vương Hồng Sển đã viết rất dài về tâm sự
Nguyễn Du; biện luận rằng trong thân phận “hàng thần lơ láo” đó Tố Như không thể
bình tâm mà sáng tác truyện Kiều được.
Vương Hồng Sển nhắc đến ngày “đổi đời” này một
lần nữa khi mô tả quang cảnh một khu phố Sài Gòn đang thay đổi. Lần thứ ba này
thì cụ viết đúng, “... từ ngày 30 – 4 – 1975 và hiện nay đã trở nên phố xá tấp
nập lớp buôn bán, lớp làm cửa hàng to ...” (trang 333).
Ba lần viết đến ngày 30 tháng Tư, hai lần lộn
thành ngày 31.
Có phải cụ Vương Hồng Sển tuổi già nên viết lộn?
Hay là người đánh máy bấm lộn nút số 0 thành số 1?
Giả thuyết thứ hai không đáng tin. Vì nếu người
đánh máy bấm ngón tay sai thì chắc có thể bấm lộn số zero qua số 9 chứ không thể
là số 1, vì trên bàn máy hai số zero và số 1 xa nhau, một ở đầu, một ở cuối
hàng số.
Giả thuyết thứ nhất cũng khó tin. Tác giả có
thể tuổi già đã lẫn, nhưng viết sai tới hai lần, đúng vào những chỗ khiến con số
30 viết thành 31 rất có ý nghĩa, thì khó tin. Hơn nữa, Vương Hồng Sển là nhà
văn rất thích hài hước, thường dùng ngôn ngữ châm chọc từ các vua, quan tay
sai, bọn háo danh, trọc phú, cho tới cả bạn bè.
Khi đọc cả cuốn Nửa Đời Còn Lại này,
chúng ta thấy ông già rất minh mẫn. Ông nhắc lại những chuyện thời 1922, 1946,
vẫn nhớ và ghi lại từng chi tiết. Vương Hồng Sển nổi tiếng là người có thói
quen ky cóp cất giữ các kỷ vật, ghi chép các biến cố trong đời mình rất cẩn thận.
Ông còn giữ cái toa thuốc của Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh viết ngày 17 Septembre
1924. Cho nên, có thể đoán khi cụ Vương viết hai lần ngày 30 ra 31 như vậy, phải
là cố ý. Đó là một cách phát biểu ý kiến về chính trị.
Cuốn hồi ký vẫn theo “lối văn Vương Hồng Sển!”
Tức là cụ kể chuyện miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, lối văn “cà rởn, cà tửng”,
nhái giọng Phuc Kiến, Triều Châu theo phong thái Miệt Vườn. Lâu lâu, tác giả
“đánh du kích” một câu thấm thía. Đó là những lúc bàn xéo về chính trị! Viết 30
thành 31 là một lối cà rởn để gửi một thông điệp cho những người đồng cảnh, đồng
điệu cùng cười với nhau!
Hai lần “cố ý” viết ngày 30 ra ngày 31, tác giả
kể lể tâm tình như đang muốn trút ra những “nỗi riêng lớp lớp sóng vùi.” Lần thứ
nhất, cụ tự nhận mình thấp hèn như ốc ngồi đáy giếng đòi bàn luận việc “trên
cao,” dù chỉ bàn một câu chuyện văn học. Tự nhận mình làm thân “ốc ngồi đáy giếng”,
là cách người miền Bắc gọi là “nói kháy.” Không biết các quan ở trên hay thằng
dân ở dưới đứa nào mới đúng là ốc ngồi đáy giếng! Cụ đổi thành ngữ “ếch ngồi
đáy giếng” thành “ốc” cũng cố ý. Con ếch còn được kêu oang, con ốc chỉ ngậm miệng!
Lần viết lộn thứ hai, Vương Hồng Sển nhắc đến
thời đoàn quân của Nguyễn Ánh ra chiếm Bắc Hà. Khi quân miền Bắc thất trận, chỉ
có hai người trong giới sĩ phu bị chế độ mới hành hạ. Một là Phan Huy Ích, cựu
thần Nhà Lê bị bỏ tù; hai là Cống Chỉnh, theo nhà Tây Sơn, bị đánh đến chết vì
thù riêng. Cụ Vương nhắc chuyện cũ, chính là để so sánh với chính sách lừa bắt
hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức miền Nam cho vào tù mút mùa sau năm 1975!
Vương Hồng Sển thấm thía thân phận đau đớn vì
mất tự do của một trí thức miền Nam. Có lúc đang bàn chuyện Phạm Quỳnh, cụ đánh
một câu: “trong nầy ngày nay có miệng mà khó nói nên lời, có tay cầm viết mà
khó ghi lời nào khỏi bị sửa chữa, cắt xén – vả lại tôi là người gì mà được phép
nói ...?” (trang 267). Viết hai chữ “trong nầy” tức là trong miền Nam. Viết
“ngày nay” tức thời cộng sản đô hộ, khác thời trước 1975. Chỉ viết bốn chữ,
“trong nầy”và “ngày nay” đủ tả nỗi niềm một nhà văn “không được phép nói!”
Tôi là người gì mà dám nói? Nhưng có lúc cụ
Vương vẫn phải nói, như khi cụ lên tiếng bênh vực một danh nhân Miền Nam vẫn bị
Cộng Sản buộc tội và bêu riếu một cách thô bạo, bất công, là Phan Thanh Giản.
Bênh vực Phan Thanh Giản là táo bạo, chống lại cả guồng máy “tuyên giáo” của Đảng
Cộng Sản! Sau khi biện luận để phục hồi danh dự Phan Thanh Giản, Vương Hồng Sển
viết: “... người đời nay học thuyết mới, tư tưởng theo mới, quên ơn kẻ trồng
cây, quên ơn sanh thành đào tạo, ...” Những “học thuyết mới, tư tưởng theo mới”
này là chủ nghĩa Mác xít!
Năm 1975, lẫn trong đám các nhà văn, nhà thơ
và học giả miền Bắc vào Sài Gòn, có nhiều người mang thái độ kiêu ngạo của đoàn
quân thắng trận. Họ lên mặt “dạy dỗ, cải tạo” giới văn nghệ và học thuật miền
Nam theo đúng đường lối đảng. Nhiều người làm công tác rồi phải “báo cáo” lên cấp
trên. Cảnh tiếp xúc hai miền Nam Bắc lúc đó, Vũ Hoàng Chương đã diễn tả qua hai
câu: “Rằng vách có tai, thơ có họa – Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh!”
Những người trí thức Sài Gòn như Vương Hồng Sển,
cùng Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Thụy Long, Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu,vân
vân, chọn sống ẩn dật, không chịu ra hợp tác với bọn vua quan mới. Cụ Vương viết:
“Tôi dư biết cho thân, thà làm dế sống trong hang, có lẽ được yên thân hơn là
múa gáy cho trẻ nhỏ nó biết chỗ trốn, chúng đổ nước ngập hang, bắt dế về nuôi
trong hộp diêm, hộp quẹt, thỉnh thoảng bắt ra đá độ, gãy càng queo râu toi mạng”
(trang 84). Nói đến thân phận con dế “nuôi trong hộp quẹt, thỉnh thoảng bắt ra
đá độ,” cũng là một cách “nói móc” những nhà văn theo đuôi cộng sản.
Vương Hồng Sển đã mô tả các hành động gọi là
“Giải phóng.” Sau khi kể chuyện cà kê Kép Tư Út hát bài Anh Khóa đời xưa, tiếp
đến chuyện bây giờ ngôi nhà Tổng Đốc Phương bị tháo gỡ bán qua Đài Loan, bỗng
nhiên cụ Vương viết: “Dân Sài Gòn tự khoe tiến bộ ký quỹ, gửi tiền nhà băng, Giải
phóng vào, hốt sạch sành sanh, thua xa dân Thổ Trà Vinh, Sốc Trăng ... bán lúa
mùa nầy xong, chôn bạc giữa lẫm rồi đổ lúa mới lên trên ...” (trang 57) Nhắc lại
phương cách cất giấu tiền của dân Thổ đời xưa, để so sánh với dân Sài Gòn thời
1975, chỉ cốt viết một câu kết án: “Giải phóng vào, hốt sạch sành sanh!” Trong
7 chữ, Vương Hồng Sển cực tả một vụ cướp bóc đại quy mô, bây giờ còn gọi là “ăn
cướp hoành tráng.” Hốt sạch sành sanh! Như vậy gọi là “giải phóng!” Ai đọc tới
câu này mà không nghĩ ra, là phụ lòng Vương Hồng Sển!
Vương Hồng Sển chia sẻ được nỗi niềm của người
dân miền Nam ngậm ngùi nghĩ tới “buổi sau ngày 30 tháng Tư!” Có lúc kể chuyện
Sài Gòn đời xưa, từ năm 1867, trải qua trào Tây, trào Nhật, cụ lại quay qua nói
chuyện vua Napoleon III bên Pháp. Rồi chợt cảm khái: “Trở lại người dân đất Sài
Gòn, như tôi đã nói, dám chắc không dân nào trí lanh tay xảo hơn. Khi bỏ áo
giáp, tuột giầy trận, chịu đi đầy, bán từ bàn thờ tổ tiên, bán ván gõ để nằm dưới
gạch, căn đầy kiếp đọa, tiếc đã muộn ...” (trang 55). Những nét chấm phá độc
đáo: Kẻ thì “bỏ áo giáp, tuột giầy trận, chịu đi đầy;” người ở lại nhà thì “bán
bàn thờ tổ tiên, căn đầy kiếp đọa!” Và tất cả đều “tiếc đã muộn!” Nếu trước đây
mọi người biết đoàn kết với nhau hơn, cùng chung sức chống lại một chế độ, một
chủ nghĩa lạc hậu, man rợ, hiếu chiến và tàn ác, thì đâu đến nỗi này!
Tiếc đã muộn! Chỉ ba chữ, ba chữ gói ghém bao
nhiêu nỗi đoạn trường của cái thời buổi “31 tháng Tư!”
No comments:
Post a Comment