Khách
quan và bình lắng nhìn về một quá khứ đầy xung đột
Pierre Brocheux trả lời Nguyễn Thuỵ Phương
28/12/2022
https://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/khach-quan-va-binh-lang-nhin-ve-mot-qua-khu-day-xung-dot
LTS. GS Pierre Brocheux, người đồng hành với sự
hồi sinh, phát triển ngành Việt Nam học ở Pháp từ những ngày đầu tiên trong thời
kỳ hậu thuộc địa, vừa từ trần hôm 25.12.2022. Được phép của tác giả, TS Nguyễn
Thuỵ Phương, chúng tôi xin đăng lại dưới đây bài phỏng vấn ông năm 2017 do cô
thực hiện và đã đăng trên tạp chí Tia Sáng ngày 26/4/2017.
Pierre
Brocheux tại trường Đại học Paris Diderot (Paris 7)
TS. Nguyễn Thụy Phương: Những lý do nào khiến GS chọn
theo nghiệp nghiên cứu lịch sử Việt Nam và Á Đông?
GS Pierre Brocheux: Tôi sinh ra
và lớn lên trong một xã hội thuộc địa, nơi mà nòi giống chủng tộc được coi là
tiêu chuẩn để phân cấp nấc thang xã hội. Giống nòi ấn định vị trí của anh trong
xã hội. Ngay từ rất sớm tôi đã ý thức được mình mắc kẹt trong địa vị người con
lai Á-Âu đầy bất tiện, mâu thuẫn và khó xử, rằng với địa vị pháp lý là công dân
Pháp, về mặt lý thuyết anh ta ở thành phần thống trị trong xã hội nhưng điều đó
lại không tương ứng với cương vị nghề nghiệp xã hội thực tế.
Tuy nhiên, lý do thứ hai mang tính quyết định, đó là vì bối cảnh, trật
tự xã hội và không khí chính trị tôi sống lúc đó đã hoàn toàn bị đảo lộn bởi Đại
chiến thế giới lần hai. Pháp bị Đức chiếm đóng. Tại Đông Dương, Nhật làm đảo
chính, người Việt Nam đủ mọi thành phần chính trị nổi dậy đòi độc lập, khiến
cho sự thống trị bá quyền của tộc da trắng đế quốc Tây phương bị lung lay trên
toàn châu Á. Tôi nhận thức rõ về sự bấp bênh của trật tự thuộc địa và khả năng
dễ bị kích động của quần chúng.
.
GS từng giảng dạy nhiều năm ở một trường trung học
Pháp tại Sài Gòn ?
Sau khi đỗ chứng chỉ dạy trung học (CAPES), tôi xin về Việt Nam đi dạy
tại trung học Jean-Jacques Rousseau. Tôi dạy lịch sử và địa lý. Ban đầu, ý định
của tôi chỉ là về hai năm để thăm và đưa vợ con về ra mắt cha mẹ, nhưng cuối
cùng gia đình tôi đã ở lại Sài Gòn tới tám năm.
.
Trong thời gian này, thông qua việc dạy sử, GS đã cố
gắng dựng cầu nối giữa sử Việt và sử thế giới ?
Môn sử-địa được dạy theo chương trình Pháp ở trường trung học Jean-Jacques
Rousseau nhưng chương trình này không hề lấy Pháp hay châu Âu làm trọng điểm mà
mở rộng ra sử thế giới, đặc biệt là ở lớp 12. Năm học 1963-1964, cùng với hai đồng
nghiệp Philippe Langlet và Roger Legay, chúng tôi soạn những bài giảng tập
trung vào lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á. Chương trình này dành 15 tiếng/tuần để
dạy tiếng Việt, sử Việt và văn Việt. Những môn học này đều do các giáo viên Việt
đảm nhận.
.
Sự hồi
sinh của nghiên cứu thuộc địa bắt đầu từ khi nào và nó diễn ra như thế nào thưa
GS ?
Nhìn từ Việt Nam, sự hồi sinh của nghiên cứu thuộc địa nói chung và Việt
Nam học nói riêng bắt đầu từ Đổi Mới, bắt đầu bằng sự mở cửa của Viện Viễn Đông
Bác cổ (EFEO) tại Hà Nội năm 1993, tiếp đến là Viện nghiên cứu phát triển Pháp
(IRD). Nếu các trung tâm lưu trữ quốc gia mở cửa cho những nhà sử học ngoại quốc
thì ở những lĩnh vực khác, những nhà kinh tế học, nhân chủng học, nông học, xã
hội học, dân tộc học… cũng bắt đầu đến thực địa nghiên cứu ở Việt Nam. Hợp tác
khoa học và kỹ thuật nảy nở thông qua rất nhiều hội thảo và công bố ấn phẩm.
Trong tiến trình này nhất thiết phải nhắc đến rất nhiều nhà nghiên cứu đi ra từ
Việt Nam bảo vệ luận án tiến sỹ tại nước ngoài. Loại bỏ đi những thiên kiến, họ
đã diễn giải lại lịch sử của chính đất nước mình.
Tại Pháp, sự hồi sinh này được đánh dấu bởi việc Tạp chí Lịch sử
Hải ngoại xuất bản một hồ sơ nhan đề “Đông Dương: thống trị và thỏa hiệp”
(*) vào năm 1995 với năm bài viết về chính trị, tôn giáo, giáo dục và y tế. Các
công trình nghiên cứu về tương tác và tiếp biến văn hóa nảy nở kể từ 2005 ở những
đề tài kiến trúc, văn hóa, chính trị, nghệ thuật, văn học…, đơn cử là những cuốn
như: Le Viet Nam au féminin/Vietnam: Women’s Realities [Việt
Nam ở khuôn mặt nữ giới] của G. Bousquet và Nora Taylor, Architectures
du Vietnam colonial: Repenser le métissage [Kiến trúc Việt Nam thời
thuộc địa : tư duy lại về sự lai tạo] của Caroline Herbelin, Théâtres
français et vietnamiens (un siècle d’échanges. 1900-2008): Réception,
adaptations, métissage [Sân khấu Pháp và Việt Nam một thế kỷ giao
lưu : tiếp nhận, phóng tác, lai tạo] do Nguyễn Phương Ngọc và C. Flicker
chủ biên, Le Vietnam, une histoire de transferts culturels [Việt
Nam : một lịch sử chuyển giao văn hóa] do Hoài-Hương Aubert-Nguyễn và
Michel Espagne chủ biên…
.
GS Pierre Brocheux sinh ra ở Chợ Lớn – Sài Gòn năm 1931. Cha ông là người Pháp đến
lập nghiệp ở Đông Dương năm 1929, mẹ ông xuất thân trong một gia đình Việt nhập
tịch Pháp trong thời thuộc địa. Ông học từ tiểu học đến trung học trong trường
Pháp tại Việt Nam, nơi pha trộn những chủng tộc, văn hóa và ngôn ngữ khác nhau.
Không chỉ có tuổi thơ gắn với bản địa, khi trưởng thành Pierre Brocheux còn từng
tham gia các hoạt động xã hội và trải qua một số sự kiện lịch sử quan trọng như
tham dự hai cuộc biểu tình lớn đòi độc lập cho Việt Nam của những lực lượng
chính trị đối lập nhau: Đảng Cộng sản dưới danh nghĩa Việt Minh, Thanh Niên Tiền
Phong, Phục Quốc Hội, Dân Xã Hội, nhóm trotskyste. Sau này, Pierre Brocheux
sang Paris học tú tài, rồi theo học cử nhân và tiến sĩ ngành sử ở Đại học
Sorbone. Luận án của ông bảo vệ năm 1969 về đề tài đồng bằng sông Cửu Long
trong một thế kỷ (1860-1960) dưới lăng kính dân cư Nam bộ chứ không phải lịch sử
thuộc địa.
.
Ông
là một trong những GS đầu tiên giảng dạy Việt Nam học tại Khoa Ngôn ngữ và văn
minh Á Đông (LCAO) của Đại học Paris Diderot. Hãy kể cho chúng tôi sự hình
thành của Ban Việt học trong trường này ?
Đầu những năm 1970, Chính phủ Pháp quyết định thành lập hem tám trường
đại học mới trong nội thành Paris. Những giảng viên biên chế được phân bổ về những
trường mới này tùy vào thiên hướng chính trị, triết học hay sư phạm. Tại Đại học
Paris 7, các giáo sư sử chủ trương không dạy sử theo “bộ tứ”: Cổ đại, Trung cổ,
Hiện đại và Đương đại, mà nhấn mạnh đến lịch sử đối chiếu và mở ra không gian
ngoài Âu châu. Thời điểm đó tôi chọn Paris 7 để được tiếp tục làm việc với GS
Jean Chesneaux, từng hướng dẫn luận án cho tôi. Ông khai mở ngành sử mới ở ĐH
này, lịch sử Á Đông. Tại đây, tôi gặp lại hai nhà sử học Daniel Hémery và
Georges Boudarel. Trên thực tế, tôi không thuộc biên chế của khoa LCAO mà là
khoa Sử, Địa, Khoa học xã hội. Nhà nghiên cứu sử học đầu tiên được
tuyển vào khoa này là Philippe Langlet, người đã dịch Khâm định Việt sử
thông giám cương mục sang tiếng Pháp và chuyên gia về lịch sử Phật
giáo Việt Nam.
GS
Pierre Brocheux là một trong những người đầu tiên giảng
dạy về Việt Nam học tại
Khoa Ngôn ngữ và văn minh Á Đông (LCAO) của Đại học Paris Diderot (ĐH Paris 7).
Ảnh: Một góc Đại học Paris Diderot. (Thuỵ Phương).
.
GS
đã viết hai cuốn sách về Hồ Chí Minh. Vì sao ông lại chọn nhân vật lịch sử
này ?
Ban đầu, tôi quan tâm đến lịch sử nông thôn và giai cấp nông dân, và thế
giới lao động nói chung, đấy là giai đoạn “mác xít” của tôi. Nhưng tôi cũng hiểu
ngay ra rằng không thể nào tách biệt ra khỏi bối cảnh xã hội. Vì vậy tôi
nghiêng về lịch trình của toàn bộ xã hội Việt Nam: tư sản thành thị, giới trí
thức mang tư tưởng hiện đại hoặc canh tân hoặc cách mạng. Chính tại nút giao
này tôi gặp Hồ Chí Minh. Nhân vật này đại diện cho một xã hội đang trong quá
trình chuyển mình mạnh mẽ, tự tìm đường trong thế kỷ 20 toàn cầu hóa đầy thảm kịch:
sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc và hai cuộc đại chiến. Lúc đầu tôi chỉ viết
một bài báo ngắn tiêu đề “Hồ Chí Minh, Marx và Khổng Tử” đã gây chú ý đến hai
nhà xuất bản Presses Sciences Po và Payot. Từ đó mà hai cuốn sách ra đời.
.
GS
có thể đưa ra nhận định so sánh về những nhà Việt Nam học người Mỹ và người
Pháp của thế hệ ông?
Các công trình khoa học của tôi được nghiên cứu đúng vào giai đoạn chiến
tranh Việt Nam, thời điểm mà cả thế giới là một sân khấu của các phong trào
cách mạng. Những giáo sư, giảng viên Pháp và Mỹ như chúng tôi có quan hệ mật
thiết với nhau cả trên cương vị đồng nghiệp và tình bạn. Nhiều người trong số họ
và chúng tôi tham gia vào phong trào quốc tế phản chiến tại Việt Nam. Về mặt học
thuật, chúng tôi quan tâm đến giai đoạn thuộc địa, các phong trào cách mạng, độc
lập, phản đế. Khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam thống nhất, khi phong trào Thế
giới Thứ ba và khối Xô viết tan vỡ, những mối bận tâm học thuật của chúng tôi dần
thay đổi hoặc chuyển hướng.
.
Theo ông, những chính sách đổi mới, mở cửa của Việt
Nam tác động như thế nào đến việc nghiên cứu của ngành Việt Nam học trên thế giới?
Hai sự kiện quan trọng: một là việc mở cửa những kho lưu trữ ở Việt Nam
và hai là, các nhân chứng hay tác nhân của lịch sử bắt đầu kể, nói hoặc viết,
và điều này dẫn đến hệ quả cho hai ngành sử: lịch sử thuộc địa và lịch sử Việt
Nam. Những công trình gần đây quan tâm đến mối tương tác và trao đổi giữa thực
dân và bị trị và kết quả của những tương tác này là sự hình thành nên tính hiện
đại của Việt Nam. Các nhà sử học cũng quay về quá khứ trên những địa hạt khác
như khảo cổ, lịch sử tôn giáo, nghệ thuật và văn học… với mục đích đối chứng
quá khứ với hiện tại, giữa cái cũ và cái mới. Ở mảng này, các nhà nghiên cứu sử
Pháp làm ra những công trình xuất sắc làm hồi sinh ngành phương Đông học vốn bị
chỉ trích là cổ lỗ từ vài thập niên. Phía các nhà sử học Mỹ, họ lưu tâm đến cổ
sử Việt Nam. Một số khác khảo cứu lại lịch sử Việt Nam Cộng hòa hoặc đào sâu
vào lịch sử thể chế Bắc Việt. Tôi nghĩ rằng các nhà sử học Pháp và Mỹ đã chọn
đúng hướng khi giải đáp những chất vấn của hiện tại về quá khứ và quay lưng hẳn
với những luận chiến phản đế giản đơn. Những cuốn quan trọng trong thời gian gần
đây theo tôi là: A History of Vetnamese [Một lịch sử của người
Việt] của K.W. Taylor, Vietnam, A New History [Một lịch sử mới]
của C. Goscha, Misalliance, Ngo Dinh Diem, the United States, and the
Fate of South Vietnam [Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ và số phận của miền Nam
Việt Nam] của Edward Miller, Vietnam. A history from earliest to Time to the
Present [Việt Nam. Một lịch sử từ khởi thủy cho tới hiện đại và đương
đại] của Ben Kiernan…
.
Xin
chân thành cảm ơn GS!
Nguyễn
Thụy Phương
26/04/2017
(*) Revue Française d'Histoire d'Outre-Mer, tome 82, n°309, 4e
trimestre 1995, "Indochine : Domination et Transactions". Đây cũng là
nhan đề bài dẫn nhập của Pierre Brocheux, giới thiệu 5 bài viết của hồ sơ (Chú
thích của Diễn Đàn)
No comments:
Post a Comment