Trần
Xuân Thời - Việt
Nam Thời Báo
https://vietnamthoibao.org/vntb-bao-ve-chinh-nghia/
(VNTB)
– Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đã ban hành luật trừng trị các hành động
phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu
bang hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi
dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ
cho nền an ninh quốc nội.
Kính
gởi những người có tâm huyết bảo vệ chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc.
Hoa
Kỳ là một quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do, dân chủ, và viện trợ
kinh tế cho toàn thế giới, nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới.
Cơ quan FBI quản lý an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi phá rối trị
an của CS Quốc tế. CIA quản lý an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu khiến cho
Cộng Sản Quốc Tế, dù đã chiếm gần một nửa thế giới, từ sau thế chiến thứ hai,
nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo thành trì của Thế Giới Tự Do cho
đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980.
Trong
suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948),
phong trào CSQT đã bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong
trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc
Tế (1938–1953) nhằm lật đổ chính quyền
tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản
thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản vì lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp
đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại
Nga Hoàng Tsar Nicholas II… Tại
Trung hoa, Mao Trạch Đông đã thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới
Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan.
Trước
sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS quốc tế, Hoa Kỳ đã gia tăng guồng
máy an ninh quốc nội và tình báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo
luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đã ban hành luật Alien and
Sedition Act ngăn ngừa nội loạn và trừng trị cuồng ngôn nhằm làm mất uy tín
chính quyền địa phương và trung ương… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật phản gián
Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô.
Năm
1901, Tổng thống William McKinley bị các phần tử chủ trương vô chính phủ ám
sát. Vị Tổng Thống thứ 25 của Hoa Kỳ, đã để lại các nhận xét bất hủ về gương
sáng của các vi anh hùng hào kiệt, “In the time of darkest defeat, victory may
be nearest… That’s all a man can hope for during his lifetime – to set an
example – and when he is dead – to be an inspiration for history”.
Tiểu
bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm, ám sát vì lý do chính trị và âm
mưu lật đổ chính phủ… Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đã bị kết án chiếu luật
Espionage Act 1917 vì sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn
đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lãnh CS, đã đọc diễn văn
trước 1,200 khán giả nhằm sách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất
tuân lệnh nhập ngũ, đã bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney,
đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá
hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp… Năm 1951, chiếu
luật Smith Act, 11 lãnh tụ CS đã bị kết án vì chủ trương bạo hành, lật đổ chính
phủ…
Tại
nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đã ban hành luật trừng trị các hành động phá
rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang
hiện nay vẫn còn có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi
dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ
cho nền an ninh quốc nội.
Chúng
tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa cộng sản, nhân
viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đại Học Massachusetts tại Boston,
tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ CSVN tham gia vào công tác viết về
lịch sử người Việt tỵ nạn hải ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến
tháng 3/2002, Cộng đồng người Việt hải ngoại đã nỗ lực tranh luận với Đại học
Mass tại Boston hầu điều chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.
Luật
của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức
có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động
hay các phương thức bất hợp pháp khác. Đảng cộng sản là đảng có mục đích khuynh
đảo, do đó đảng cộng sản là đảng không được luật Massachusetts công nhận. Tổng
Chưởng Lý tiểu bang có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo.
Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội hình sự, không được
ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ
quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư
thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ, không được nhập tịch,
v.v.
Luật Massachusetts,
Chương 264,
Điều
16 ấn định: “… Subversive organizations… mean any form of association… whether
incorporated or otherwise for the common purpose of advocating, advising,
counseling or inciting the overthrow by force or violence or by any unlawful
means, of the government of the Commonwealth or of the United States.”
Điều
16 A: “The Communist Party is hereby declared to be a subversive organization.”
Điều
17: “A subversive organization is hereby declared to be unlawful.”
Điều
18: “The attorney general shall bring an action… against any organization which
has reasonable cause to believe is a subversive organization.”
Điều
19: “Any person who becomes or remains a member of any organization knowing to
be a subversive organization shall be punished by imprisonment in the state
prison for not more than three years….”
Điều
20: “No person who has been convicted of a violation of the provisions… of
section nineteen… shall be eligible to… employment… in any public or private
institution… The attorney shall have jurisdiction in equity to restrain and
enjoin any such person from performing such duties.”
Mặc
dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước cộng sản vì lý do kinh tế, thương
mại, an ninh toàn cầu; vì lý do nhân đạo để nâng cao sinh hoạt của các lĩnh vực
nhân sinh và để bảo vệ nền văn minh nhân bản dựa trên các quyền thiên nhiên
(natural right civilization) hay nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà
không ai được quyền xâm phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn tự thân đối
nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh
Quốc, Cộng.
Quan
niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Tạo hóa ban cho nhân loại là quan niệm
phát xuất từ dân gian. Hầu hết nhân loại hướng về đấng Tạo Hoá. Từ ngàn xưa các
bộ tộc, quốc gia đều quan niệm tộc trưởng các bộ lạc hay vua chúa các quốc gia
là Thiên Tử, trung gian giữa Trời và loài người, thừa mệnh Trời trị vì thiên
hạ. Quan niệm này bàng bạc trong lịch sử và văn hóa nhân loại từ cổ đến thế kỷ
20. Tại Á Châu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi mới được
thực thụ tấn phong vào chức vụ Hoàng Đế năm 238 trước Công nguyên. Các vua chúa
qua các triều đại tại Trung Hoa đều được tấn phong theo quan niệm Vua là Thiên
Tử, thay mệnh Trời trị vì thiên hạ cho đến đời vua cuối cùng của Triều đại Mãn
Thanh vào đầu thế kỷ thứ 20.
Bên
phương trời Tây, các Đức Giáo Hoàng La Mã, đại diện cho Thần quyền, là Giáo hội
Công Giáo, thường tấn phong các vị Hoàng Đế như Giáo Hoàng Lê–ô thứ III năm 800
sau Công nguyên đã tấn phong Hoàng Đế Charlemagne. “Thần quyền và thế quyền như
linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau.”
Khổng
giáo quan niệm “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. “Dân là nước, vua
là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền”. Nhưng Khổng học cũng quan niệm trung
thần bất sự nhị quân”. CS Tàu đã lợi dụng chủ trương “Trung Thần ” này để
khuyến dụ dân chúng trung thành với Đảng CS. Ngày nay Trung Cộng lập các Viện
Khổng Tử tại một số quốc gia trên thế giới để bành trướng văn hoá Tàu. Nhưng
tiếc thay, các Viện Khổng Tử cũng là cơ quan tình báo. Sự lạm dụng này đã khiến
cho một số cơ quan truyền bá văn hoá của Trung Cộng bị các quốc gia đóng cửa.
Chủ
nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền bất khả xâm phạm và nổi tiếng trên
thế giới là chủ nghĩa vi phạm nhân quyền. Vì CS vô thần, không tin con người có
đời sau, nên không có tín ngưỡng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế,
không có linh hồn, nên sống theo bản năng như các cầm thú khác nên quan niệm
tôn giáo là thuốc phiện, lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện, đã giết hại
hằng trăm triệu sinh linh để thỏa mãn thú tính. Ngược lại, các quốc gia tự do
quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền bình đẳng và những quyền thiên
nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm được Tạo hóa ban cho nhân loại.
Một
trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương quảng bá và tôn
trọng nhân quyền, nhân phẩm, nhân vị của con người. Mọi người được bình đẳng,
được tạo dựng theo hình ảnh của Tạo hoá. có:
(1)
Trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển
sáng tạo;
(2)
Lý trí (reason) để suy xét, phân biệt phải trái, thiện ác;
(3)
Ý chí (will) để quyết tâm thực hiện điều mình mong ước hay lý tưởng của mình và
(4)
Tự do (freedom) để hành động theo lương tri.
Do
đó, con người “Nhân linh ư vạn vật” cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.
Trong
bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đình, Hà Nội, ông HCM
cũng lập lại những câu văn trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, mở
đầu với câu:
“Hỡi
đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời
bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu
ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789 cũng nói: “Người ta sinh ra
tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”
CSVN
muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận thế giới tự do. Nếu chúng ta xét qua
thực chất hoạt động của đảng CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rõ CSVN
chỉ hứa suông mà không bao giờ có thành ý thực hiện những điều hứa hẹn. Lời hứa
không mất tiền mua. Edmund Burke rất hữu lý khi nhận xét về những hứa hẹn hão
huyền của các chính quyền độc tài: “Hypocrisy can afford to be magnificent in
its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”.
Về
phương diện tri thức, nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá ban cho nhân
loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ý niệm về nhân phẩm, nhân quyền,
các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức tin (Faith seeking understanding:
If you do not believe, you will not understand- Credo ut intelligam) hơn là qua
suy lý. CS Vô Thần không tin vào đấng Tạo Hóa tạo ra vũ trụ và nhân loại, nên
chưa trưởng thành để am hiểu các ý niệm về quyền tự do mà Tạo Hóa đã ban cho
nhân loại. Những quyền này Tạo Hóa ban cho mọi người, nhưng Tạo Hóa cũng ban
cho con người tự do để chọn sự lành, lánh sự dữ hay ngược lại.
Ngoài
ra, vì trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc sống trần tục, có
những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận được (tri giác) nên chúng ta
cần phải có lòng tin tưởng để được Thiên khải. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin
Coolidge đã nhận định: Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới mong được trưởng
thành. “It is only when men begin to worship that they begin to grow”.
Quan
niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho nhân loại đã và
đang ảnh hưởng đến tâm lý chính trị, tư duy và hành động, của nhân dân hữu thần
trên thế giới và các triết thuyết chính trị của các quốc gia dân chủ Tây
phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt
giống cưu mang mầm mống của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789)
trong thế kỷ thứ 18. Ví dụ ý niệm giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm
1833 và sau đó được khai triển tại Mỹ gây nên cuộc nội chiến 1861–1865 trong
thế kỷ thứ 19.
Tư
tưởng lên khuôn cho hành động. Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ quyền tự do thiên
nhiên (Natural Rights Liberty) do Tạo Hóa ban cho nhân loại đã và đang là
nguyên động lực điều hướng chính sách đối nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.
Đối nội: một trong những
nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ (1861–1865) là để bảo vệ nhân
quyền, giải phóng chế độ nô lệ, vì chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lý,
phản bội lý tưởng tự do. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ
đã trả một giá rất đắt, đã hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến
Nam–Bắc phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống Cộng hòa khả kính Abraham
Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xã hội.
Đối ngoại: Hoa kỳ đã tham
chiến chống Đức Quốc Xã và Phát-xít Nhật trong đệ nhị thế chiến (1939–1945) tại
ba mặt trận Âu, Á. Phi. Hoa Kỳ đã hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ
không tham chiến thì Âu Châu, Phi Châu đã bị Đức Quốc Xã xâm lăng. Á Châu và
ngay cả Úc Châu cũng bị Phát-xít Nhật chiếm đóng thì vận mệnh của các dân tộc
liên hệ tang thương như thế nào!
Nếu
không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản thì Trung hoa chẳng những đã hy sinh 14 triệu
người mà còn phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa và nhất là Âu Châu, Á Châu,
Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao giờ mới thoát khỏi ách độc tài đảng
trị của Đức và Nhật. Trong cuộc chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại
Việt Nam, Hoa Kỳ cũng hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lãnh.
Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh
chịu, không phải để xâm lăng, chiếm đất, giành dân, mà đã thể hiện ý chí bất
khuất trong chủ trương “bảo vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm
lăng, đúng với triết lý nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:
“Nếu
người tốt không ra tay nghĩa hiệp thì kẻ gian tà chiến thắng –Evil triumphs if
good men do nothing.” (Edmund Burke).
Hoa Kỳ hành động dưới ngọn cờ chính nghĩa chứ không phải như CS
Hà Nội xâm lăng qua chiêu bài giải phóng để áp đặt chế độ độc tài đảng trị,
dâng đất, nhượng biển cho Tàu Cộng mà tổ tiên đã hy sinh xương máu gầy dựng qua
hàng ngàn năm lịch sử từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.
Hơn 125,000 quân nhân anh
dũng, binh sĩ và tướng lãnh Hoa Kỳ, đã “sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các
nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ đã hy sinh để giành lại chủ quyền cho các quốc gia
lâm chiến như Anh, Pháp, Phi và các nước khác tại Âu châu, Á châu…
Hàng năm, đến ngày kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc
gia này đã đem vòng hoa ra tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh mạng sống
để giải phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hùng hồn của sự hy sinh vì Chính
nghĩa, vì lý tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.
Ngoài
vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đã viện trợ hằng ngàn
triệu Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa kỳ đã lột xác Nhật Bản từ
chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung
cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi
khía cạnh nhân sinh văn hoá, giáo dục, kinh tế, xã hội, chính trị. Nhờ thế,
Nhật Bản đã trỗi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đã trở thành một
quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến Tây phương.
Nhật Bản tuy bại trận,
nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đã từng vinh danh Tướng MacArthur vào danh sách
phong thần, một trong 12 ân nhân của dân tộc Nhật. Phải chăng tinh thần có hữu
của nhân dân Hoa Kỳ vẫn là tinh thần “The only safe and sure way to destroy
your enemy is to make them your friends” (Sigismund, Holy Roman Emperor (1437);
Abraham Lincoln (1865).” Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Đem chí nhân thay cường
bạo”.
Tại
Việt Nam, năm 1975. Cộng Sản Bắc Việt đã vi phạm Hòa Ước Ba Lê và xâm lăng miền
Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết. Cộng sản Bắc Việt, quá lạc
hậu và dã man, đã trả thù Miền Nam bằng cách bắt giam hằng triệu dân, quân,
cán, chính Miền Nam. Hàng chục ngàn người đã chết trong ngục tù CS vì bị tra
tấn, đói khát và bệnh tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa
triệu người đã chết thảm trên biển cả hay vùi thây bên góc rừng, xó núi, trên
đường vượt thoát tìm tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đã gây nên cuộc
chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.
Trong
các xã hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong
các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do
Thượng Đế (natural law) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.
Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã ghi rõ: “All men are created equal,
that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights that
among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness”. Mọi người sinh ra
đều được bình đẳng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban
cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc…
Thấy
người mà nghĩ đến ta, trước cảnh quốc phá, gia vong, dân tộc Việt bị phá sản về
cả tinh thần lẫn vật chất. tập thể người Việt lưu vong hải ngoại đã và đang cố
gắng tái lập tự do do, dân chủ, và sự toàn vẹn lãnh thổ,
Hơn
4 thập niên trôi qua, nhiều vị anh hùng, liệt sĩ, đã ngày quên ăn đêm quên ngủ,
hy sinh nhân tài, vật lực trong công tác tranh đấu cho tương lai của tổ quốc.
Dù lực bất tòng tâm, nhưng điều quan trọng là sự nỗ lực nuôi dưỡng ý chí bất
khuất vì quốc gia, dân tộc.
Làm
chính trị cần sự dấn thân, can đảm, bền chí, nhẫn nhục… có khi hy sinh cả cuộc
đời, không vì tư lợi mà vì Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm. Người có tâm huyết làm
chính trị chỉ vì muốn thực hiện một sứ mệnh cao cả, không nề gian khổ, nếm mật
nằm gai, noi gương Việt Vương Câu Tiễn, quyết chí xây dựng quốc gia dân tộc,
như lời thơ diễn tả của Đằng Phương:
“Họ là những anh hùng
không tên tuổi,
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.”
Chung
quy, con người thường hành động theo tư tưởng của mình qua các thế hệ. Tư tưởng
thu nhận từ xã hội, học đường, bạn bè… kết tinh thành trạng thái tâm lý, gọi
chung là tâm lý quần chúng.
Trong
bất cứ xã hội nào, thường một thiểu số chấp nhận một thái độ, một lập trường và
dùng lập trường đó như kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó một thiểu số
tranh đấu cho lý tưởng của họ, nếu thắng thế, được quần chúng hưởng ứng nhờ
chính sách ích quốc lợi dân, họ sẽ trở thành cấp lãnh đạo. Lãnh đạo vì dân vì
nước là phước của quốc gia. Lãnh đạo vì xôi thịt là quốc nạn.
Thế
thì không nên hờ hững với chính trị. Một mặt sinh hoạt chính trị “nhằm sửa trị
sự việc cho chính trực”. Mặt khác nếu mình không tỏ rõ lập trường, tà đạo lên
nắm quyền thì chính mình sẽ là nạn nhân của thời cuộc. “Evil triumphs when good
men do nothing” (Edmund Burke).
Nhận
xét này là kim chỉ nam hướng dẫn hành động của đồng bào quốc nội yêu chuộng tự
do và quý vị đồng hương hải ngoại trong công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức các
đoàn thể ái hữu, tôn giáo, cộng đồng địa phương, tiểu bang, liên bang, quốc tế
để xây dựng đời sống mới hầu hỗ trợ cho đại nghiệp cứu quốc chóng được
viên thành.
Nhờ
tự do tư tưởng mà các nước dân chủ đã tiến xa trên bước đường xây dựng quốc gia
dân tộc, ý thức chính trị của quần chúng cao. “Ý dân là ý trời- vox populi vox
dei”, không phải thể hiện bằng cách mạng, bằng đảo chánh, gây chiến tranh, cướp
chính quyền mà bằng phương thức ôn hoà, nhân bản, văn minh, bất bạo động: Bầu
cử tự do để thực thi quyền dân tộc tự quyết. (Right to self-determination).
Bầu
Cử Tự Do thật sự hữu hiệu mỗi khi cơ quan tổ chức bầu cử, cử tri, ứng cử viên
được hình thành dựa trên động cơ đạo đức cao thượng “Một lòng vì dân, vì nước”
qua quá trình:
(1)
Nghiên cứu hoàn cảnh, môi trường xã hội, kinh tế, chính trị, kiện toàn cơ cấu
tổ chức, kỹ thuật, luật lệ, điều kiện cử tri, ứng cử viên, chiếu theo nhu cầu
của môi trường dân sinh, thích ứng nhằm phát triển xã hội (cách vật trí tri);
(2)
Tham gia bầu cử với tư cách cử tri, ứng viên hay nhân viên phòng phiếu với tấm
chân tình nhằm mục đích phụng sự xã hội, “thượng vị đức, hạ vì dân” (thành
tâm);
(3)
Khi sự thành tâm đã an định thì không dùng phương pháp lươn lẹo, gian trá, thay
trắng, đổi đen, tôn trọng đặc tính liêm khiết của cuộc bầu cử (chánh ý);
(4)
Người được vinh danh là người có phẩm hạnh, là người luôn xét mình, tự sửa sai
để hoàn thiện trong lời nói và việc làm (tu thân);
(5)
Chọn người đại diện một cách công minh, chính trực, thể hiện sự liêm chính, là
hành vi nêu gương tốt cho con, cháu, hậu duệ, trong công tác giáo dục, xây dựng
nền tảng gia đình (tề gia)
(6)
Hỗ trợ, giúp đỡ các cuộc bầu cử tự do để sự điều hành được chính trực làm gia
tăng giá trị của tập thể, lòng tín nhiệm của đồng bào, sự kỳ vọng của ứng cử
viên, trong công tác xây dựng nhân quần xã hội (trị quốc);
(7)
Một khi mọi người, mọi nhà, quốc gia, tuân giữ đạo đức truyền thống thì công
đồng quốc tế được thái bình, thịnh trị, (bình thiên hạ).
Nếu
vai trò của các đoàn thể, cộng đồng,
chính đảng, chính phủ là
để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị vương đạo để mời gọi sự hợp tác
của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc
gia, dân tộc, thì mọi công dân cao quý phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường
bảo vệ chính nghĩa cho chính mình vậy.
Tin Bài Liên Quan:
VNTB – “Lương Tâm Chính Trị của người Công Giáo” (Kỳ 1)
VNTB – “Lương Tâm Chính Trị của người Công Giáo” (Kỳ 2)
VNTB – “Lương Tâm Chính Trị của người Công Giáo” (Kỳ 3)
VNTB – “Lương Tâm Chính Trị của người Công Giáo” (Kỳ cuối)
No comments:
Post a Comment