“Lịch
sử báo chí Việt Nam”: Lịch sử qua số phận của các tờ báo
Vòng quay trăm năm
của báo chí nước nhà.
AN
NAM - LUẬT KHOA
September 27, 2022 . 10:14 PM
https://www.luatkhoa.com/2022/09/lich-su-bao-chi-viet-nam-lich-su-qua-so-phan-cua-cac-to-bao/
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1304/2022/09/DS.jpg
Bìa sách: Tác giả
cung cấp. Ảnh nền: Phạm Hoài Nhân. Đồ họa: Luật Khoa.
Ngày 24/3/1925, một thanh niên người Việt đã cầm
đầu một cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Người thanh niên đó đã phát truyền đơn, kêu gọi
dân chúng nổi dậy:
“Từ 70 năm qua chúng ta sống dưới ách nô lệ.
Giờ đây, ta được các chánh phủ đã đàn áp chúng ta suốt 70 năm tuyên bố rằng họ
thương mến, họ đem nền văn minh tới để khai hóa chúng ta… Từ 70 năm, bao nhiêu
chí sĩ của dân tộc đã bị giết chóc, tù đày, ngược đãi. Hỡi anh em, lẽ nào anh
em chịu cúi đầu cam phận ngựa trâu…”
Người thanh niên 25 tuổi đó chính là Nguyễn An
Ninh, chủ nhiệm của tờ báo Pháp ngữ La Cloche Fêlée (Tiếng Chuông Rè). Ông
thành lập tờ báo vào tháng 12/1923, sau khi đậu bằng cử nhân luật ở Pháp.
Nguyễn An Ninh dĩ nhiên bị bắt sau cuộc biểu
tình và bị truy tố ra tòa án ở Sài Gòn.
Đó là một phần nội dung của cuốn sách “Lịch
sử báo chí Việt Nam” của tác giả Huỳnh Văn Tòng, được xuất bản vào
tháng 4/1973 tại Sài Gòn. Cuốn sách là bản dịch sơ lược từ luận án tiến sĩ của
tác giả tại Đại học Sorbonne, Paris.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã giới thiệu cuốn
sách này với nhận xét đây là công trình biên soạn quy mô một cách khoa học, có
hệ thống, dựa vào những tài liệu xác thực mà tác giả đã đọc được khá đầy đủ từ
Thư viện Quốc gia Pháp.
Bạn đọc có thể tìm hiểu về những tờ báo đầu
tiên được xuất bản tại Việt Nam và tra cứu gần như đầy đủ các tờ báo với các
ghi chép cẩn thận, ví dụ như ai là người thành lập, số báo đầu tiên, số báo cuối
cùng, tòa soạn đã làm báo như thế nào, khuynh hướng báo chí ra sao, những bài
báo nổi bật trên cả ba miền đất nước là gì, v.v.
Qua những dữ kiện được thu thập vừa rộng vừa
sâu, cuốn sách sẽ nói cho bạn biết rằng thật là hời hợt nếu nhận định một cách
đơn giản về báo chí dưới thời kỳ thuộc địa.
Xuyên suốt trong cuốn sách, bạn sẽ khám phá
nhiều vấn đề lịch sử, văn học thông qua lăng kính báo chí.
Năm 1917, tờ báo đầu tiên dành cho phụ nữ được
thành lập ở Việt Nam, với tên gọi tạp chí Nữ Giới Chung. Chủ của tạp
chí là một người Pháp tên là Henri Blaquière. Ông Blaquière giao cho bà Sương
Nguyệt Anh - con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - làm chủ bút. Trong số báo
đầu tiên, bà Sương Nguyệt Anh ghi rõ mục đích của tờ báo là truyền bá chữ Quốc
ngữ, tuyệt đối không nói đến chính trị. Dù chỉ xuất bản được một năm nhưng một
số độc giả nhận định tờ báo đã mang lại những biến đổi mới mẻ cho đời sống của
phụ nữ Việt Nam vốn bị ràng buộc trong những nguyên tắc cứng nhắc của Khổng - Mạnh.
Về tờ báo dành cho phụ nữ, cuốn sách cho biết
trước năm 1930 chỉ có hai tờ.
Một tờ ở Sài Gòn bán rất chạy là tuần
báo Phụ Nữ Tân Văn, ra đời vào ngày 2/5/1929. Báo phát hành vào thứ
Năm, ngoài bìa báo vẽ ba cô gái Bắc, Trung, Nam với câu “Phấn son tô điểm sơn
hà, làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam”. Chủ nhiệm của tờ này là bà Nguyễn Đức Nhuận,
chủ bút là nhà báo lừng danh Đào Trinh Nhất. Tờ báo có các mục thường xuyên như
ý kiến về vấn đề thời sự, vấn đề giải phóng phụ nữ Việt Nam, phụ nữ và gia
chánh, tiểu thuyết, v.v. Tờ báo cũng rất được độc giả Bắc Kỳ và Trung Kỳ đón nhận.
Tờ thứ nhì là nhật báo Phụ Nữ Thời
Đàm, ra đời tại Hà Nội vào ngày 8/12/1930. Tờ báo do cô Nguyễn Thị
Xuyên - hoa khôi đất Hà thành - làm chủ nhiệm. Phan Khôi về sau đã hợp tác với
tờ báo này.
Năm 1925, tờ báo có tên là Thanh Niên ra
đời, với người sáng lập là Nguyễn Ái Quốc. Tờ báo này được trùm mật thám Đông
Dương Louis Marty nhận định:
“Những tờ báo Thanh Niên đầu
tiên nhấn mạnh về sự đoàn kết nội bộ […] Đồng thời cũng kích thích tinh thần độc
lập dân tộc và lòng yêu nước […] Sau đó, tờ báo giúp độc giả nhận định về tình
hình thế giới […] Lẽ dĩ nhiên, lối nhận định và cách thức loan tin đã bóp méo sự
thật […] Tờ báo hướng dẫn từ từ cho ai nấy hiểu rằng hiện giờ ở thế giới đã có
nước Nga theo chế độ Xô-viết, dân ở nước Xô-viết ấy sống trong tự do hạnh phúc.
Nguyễn Ái Quốc - người chủ biên của tờ Thanh Niên - tỏ ra kiên
nhẫn, suốt 60 số báo đầu tiên để cho độc giả chuẩn bị tinh thần và tình cảm và
sau rốt, ông ta mới phơi bày công khai chủ trương của mình: Chỉ riêng đảng cộng
sản mới có thể đem hạnh phúc cho dân tộc Việt mà thôi!”
Ở Trung Kỳ, người Pháp không cho thành lập một
tờ báo bằng chữ Quốc ngữ nào cho đến năm 1927. Huỳnh Thúc Kháng đã dùng vị thế
làm quan của mình để tranh đấu kịch liệt mới có thể phát hành được tờ nhật báo
có tên là Tiếng Dân. Trước đó, người dân cũng trông chờ vào lời hứa
ra mắt tờ báo của cụ Phan Bội Châu nhưng mọi sự không thành.
Cuốn sách cũng cho biết rằng báo chí đã đóng
góp lớn vào việc phổ biến chữ Quốc ngữ và văn chương hiện đại. Báo chí khi đó
là phương tiện duy nhất để các nhà văn trau dồi chữ Quốc ngữ.
Miền Nam với sự phát triển của báo chí đã trở
thành nơi phổ biến chữ Quốc ngữ đầu tiên, văn học tiếng Việt cũng được phát triển
ở miền Nam trước rồi vang dội đến miền Bắc. Tuy nhiên, miền Bắc mới là nơi mà
chữ Quốc ngữ được phát triển, trở thành nền tảng vững chắc cho văn chương.
Trước năm 1930, báo chí miền Nam có khuynh hướng
thiên về tin tức, nhất là trong các hoạt động chính trị thì làng báo Sài Gòn
luôn linh động, nhạy bén. Báo chí ở miền Nam đi trước miền Bắc 20 năm. Miền Nam
do là đất của Pháp nên người dân hưởng quyền tự do ngôn luận như người Pháp.
Người làm báo ở miền Nam được phát biểu thoải mái hơn đồng nghiệp ở miền Bắc.
Vì thiếu tự do, ký giả miền Bắc đành thu hẹp vào phạm vi văn học, nghệ thuật.
Tác giả cũng cho biết các nhà báo Việt Nam rất
đa dạng trong đó có chính khách làm báo như Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu; văn
sĩ, thi sĩ làm báo như Tản Đà; giới kinh tài dĩ nhiên cũng làm báo, và cũng có
các nhà báo chuyên nghiệp, nổi bật là Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn, những người đã có
tác động lớn trong việc cải cách báo chí Việt Nam.
Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn sống bằng nghề báo.
Hai thanh niên này được Giáo sư Lê Hữu Phúc trợ cấp sang Pháp để học làm báo.
Hoàng Tích Chu học nghề báo. Đỗ Văn thì nghiên cứu in ấn. Sau khi về nước, năm 1927,
Hoàng Tích Chu đã đưa ra cách hành văn mới, gọn gàng, sáng sủa, ít dùng danh từ
Hán-Việt. Tuy nhiên, độc giả lúc này đã quen với báo chí trọng chữ Nho và nhiều
điển tích, điển cố Trung Hoa. Cách viết mới bị cho là “quá vắn tắt", “viết
văn lai Tây”. Chủ của Hà Thành Ngọ Báo phải đuổi việc hai người.
Cuối cùng, qua tờ Đông Tây do
hai người ấn bản vào năm 1929, cách viết của Hoàng Tích Chu mới chiếm được cảm
tình của công chúng và ảnh hưởng đáng kể đến giới làm báo Bắc Kỳ. Đỗ Văn đã áp
dụng cách trình bày của báo chí Tây phương vào hoàn cảnh của báo chí Việt Nam,
trang nhất của báo có nhiều tranh ảnh, minh họa, tờ báo trở nên đẹp hơn.
Tuy cuốn sách viết về một thời kỳ xa xôi nhưng
có những mô tả mà thời nay vẫn còn sờ sờ ngay trước mắt độc giả, ví dụ:
“Thực dân tìm mọi cách để ngăn cản tự do báo
chí và tìm cách nuôi dưỡng những tờ báo nào chịu tuyên truyền, tức là ca ngợi
chế độ. Chánh quyền thực dân áp dụng những nguyên tắc lạc hậu, dùng những
phương tiện vượt ngoài mức tưởng tượng để khóa miệng báo chí Việt ngữ. Giấy
phép ra báo thì thỉnh thoảng mới cấp hoặc là không cấp ra. Kế đó, có sở kiểm
duyệt, một sở làm việc hăng hái và tận tụy để cắt xén tàn nhẫn những bài báo
không chịu ca ngợi những thành quả tốt đẹp của chế độ.”
Trên đây chỉ là vài phần trăm nội dung của cuốn
sách về buổi đầu của báo chí Việt Nam này. Trong một bể thông tin ngồn ngộn như
vậy, cuốn sách không hề khó đọc.
Tác giả Huỳnh Văn Tòng chia cuốn sách thành
tám phần:
·
Vấn đề thông tin trong xã
hội Việt Nam ngày xưa;
·
Chế độ báo chí dưới thời
kỳ Pháp thuộc;
·
Báo chí từ năm 1865 đến
năm 1907, là giai đoạn khởi đầu của báo chí Việt Nam;
·
Báo chí Việt Nam từ 1908
đến năm 1918;
·
Sự phát triển của báo chí
từ 1918 đến 1930;
·
Các vấn đề đặc biệt của
làng báo;
·
Phần kết luận của tác giả,
cùng với mục tra cứu các tờ báo theo thứ tự chữ cái.
Tác giả Huỳnh Văn Tòng sinh năm 1941, người
Tây Ninh. Năm 1972, ông từ nước ngoài trở về miền Nam, giảng dạy báo chí tại
trường Đại học Đà Lạt và Đại học Vạn Hạnh. Sau năm 1975, ông ở lại Việt Nam tiếp
tục giảng dạy và viết sách. Ông mất vào năm 2011.
Cuốn sách “Lịch sử Báo chí Việt Nam” đã được
tái bản nhiều lần sau năm 1975. Nội dung của bài viết này dựa theo cuốn sách xuất
bản năm 1973 tại Sài Gòn.
Bài viết nằm trong mục Đọc sách cùng Đoan Trang,
đăng vào tối thứ Ba hàng tuần. Bài cộng tác xin gửi cho chúng tôi tại đây.
Ban biên tập Luật Khoa tạp chí, bao gồm Đoan Trang,
rất mong chờ bài viết của bạn.
No comments:
Post a Comment