Sáu phương án thay thế
cho vùng cấm bay ở Ukraine
David
A. Deptula, Marc R. DeVore, Emma Salisbury, và Michael Hunzeker - Foreign
Policy
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
29/03/2022
https://nghiencuuquocte.org/2022/03/29/sau-phuong-an-thay-the-cho-vung-cam-bay-o-ukraine/
Vùng cấm bay là một động thái leo thang cao, nhưng
nhiều khả năng sẽ không hiệu quả. Dưới đây là sáu lựa chọn tốt hơn.
Cuộc chiến tàn khốc của Nga ở Ukraine đã đặt
ra một tình thế lưỡng nan cho các nhà hoạch định chính sách phương Tây. Can thiệp
quân sự trực tiếp sẽ đi kèm rủi ro leo thang đến mức không thể chấp nhận được,
đặc biệt là đối với các thành viên NATO. Nhưng việc để Nga thản nhiên xâm lược
một nền dân chủ châu Âu mà không bị ngăn chặn sẽ gây ra những hậu quả lâu dài
và tàn khốc đối với người dân Ukraine, an ninh châu Âu, và toàn bộ khái niệm về
trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.
Việc đe dọa áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh
tế nặng nề đã không thể ngăn cản bước tiến xâm lược của Nga. Việc triển khai trừng
phạt một cách nhanh chóng và toàn diện dường như cũng không có khả năng buộc Tổng
thống Nga Vladimir Putin sớm từ bỏ chiến dịch tàn bạo của mình.
Do đó, NATO cần các lựa chọn quân sự để giúp
các lực lượng thông thường của Ukraine tránh bị thất bại, tạo ra chi phí nặng nề
hơn cho quân đội Nga nhằm củng cố vị thế của Kyiv trên bàn đàm phán, và kéo dài
thời gian để các lệnh trừng phạt có hiệu lực. Thật không may, phương án có vẻ
như đang nhận được nhiều sự ủng hộ nhất trong nhóm cựu sĩ quan quân đội và quan
chức chính phủ cấp cao – áp đặt vùng cấm bay – lại là một động thái leo thang
cao, nhưng nhiều khả năng sẽ không hiệu quả.
May mắn thay, NATO vẫn có các lựa chọn khác. Dưới
đây là sáu phương án thay thế. Mỗi lựa chọn trong số này đều ít leo thang hơn
nhiều so với vùng cấm bay và sẽ cung cấp cho lực lượng quân sự Ukraine sự hỗ trợ
nhanh chóng và có giá trị. Chúng dựa trên các tiền lệ lịch sử thuyết phục, và sẽ
cho phép NATO quản lý rủi ro bằng cách khai thác các chiến thuật vùng xám mà giới
chuyên gia từ lâu đã coi là lãnh địa độc quyền của đối thủ của họ.
1. Huấn luyện các
tình nguyện viên Ukraine sử dụng vũ khí cơ động.
Vũ khí đang được các đối tác phương Tây đổ vào
Ukraine, bao gồm cả các tên lửa chống tăng và tên lửa phòng không cần thiết. Đặc
biệt, tên lửa vác vai rất quan trọng trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công
trên không trung, nhất là khi hệ thống phòng không thông thường không có sẵn,
hoặc đang được sử dụng ở nơi khác.
Tuy nhiên, Ukraine đang thiếu các sĩ quan được
đào tạo để vận hành các loại vũ khí kiểu này. Các quốc gia phương Tây có thể lấp
đầy khoảng trống bằng cách huấn luyện các tình nguyện viên người Ukraine ở nước
ngoài về các hệ thống tên lửa cơ động trước khi họ trở về nước chiến đấu, tương
tự như chương trình huấn luyện mà quân đội phương Tây đã cung cấp cho quân đội
Ukraine đang ở trong nước.
Khi Chiến tranh Yom Kippur nổ ra vào năm 1973,
Israel không sở hữu bất kỳ loại tên lửa chống tăng tối tân nào, thứ mà sau này
đã chứng tỏ là cực kỳ có giá trị. Ngay sau khi xung đột bắt đầu, đại sứ quán của
Israel tại Washington đã huy động các sinh viên Israel đang theo học tại các
trường đại học của Mỹ. Tiếp đến, Quân đội Mỹ đã cho những sinh viên đó tham gia
một chương trình đào tạo cấp tốc, rồi Không quân Mỹ hỗ trợ không vận, đưa họ –
và tên lửa – vào khu vực xung đột, như một phần trong Chiến dịch Nickel Grass.
Toàn bộ chiến dịch đã được đưa vào hoạt động đủ nhanh để các sinh viên này có
thể tiến vào chiến trường Trung Đông và kịp tiêu diệt một số lượng xe tăng của
đối phương trước khi cuộc chiến kéo dài gần hai tuần kết thúc.
Những người Ukraine xa xứ ở châu Âu và Mỹ muốn
trở về quê hương để chiến đấu, đặc biệt là những người từng được đào tạo quân sự,
trước tiên có thể được tuyển vào các khóa đào tạo ngắn hạn, chuyên sâu tại các
căn cứ quân sự của châu Âu, học cách sử dụng Javelin, Stinger và các loại tên lửa
vác vai khác. Chương trình này cũng có thể được mở rộng cho các loại bom đạn
khác và đào tạo bổ sung nếu cần.
2.Tạo điều kiện
cho các hoạt động dân sự trên không gian mạng.
Các nhóm hacker dân sự, bao gồm Anonymous,
đã bắt đầu tự nhắm mục tiêu vào Nga và Belarus bằng cách đánh sập các trang web
của chính phủ, làm rò rỉ tài liệu mật, và hack các cơ sở truyền thông nhà nước.
Những cuộc tấn công trên mạng của dân thường
này chắc chắn rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, về cơ bản, chúng không có khả năng
cản đường nỗ lực chiến tranh của Nga, nếu chúng chỉ được thực hiện bởi một cộng
đồng liên kết lỏng lẻo gồm các nhà hoạt động mạng, những người có trình độ kỹ
thuật cao nhưng thiếu kiến thức về bối cảnh để tối đa hóa thiệt hại mình gây
ra. NATO có thể giúp lấp đầy khoảng trống này khi tìm cách “hướng dẫn ở sau
cánh gà,” điều phối các hoạt động mà đáng lẽ sẽ chỉ là một loạt các cuộc tấn
công riêng lẻ và thiếu phối hợp.
Phía Nga đã đưa cách tiếp cận này đến mức cực
đoan bằng cách sử dụng các tổ chức tư nhân làm công cụ hỗ trợ không gian mạng.
Trong đợt tấn công từ chối dịch vụ (denial-of-service/DoS attacks) xảy ra năm
2007 nhắm vào Estonia, các cơ quan tình báo Nga đã cung cấp phần mềm và hướng dẫn
cho những công dân bình thường, những “hacker yêu nước,” muốn trừng phạt
Estonia vì dám dỡ bỏ một bức tượng kỷ niệm chiến thắng của Hồng Quân trước Đức
Quốc xã.
NATO nên có một cách tiếp cận khác. Bởi vì nhiều
hacker – đặc biệt là những người liên kết với các nhóm như Anonymous – vô cùng
thiếu lòng tin vào thẩm quyền của chính phủ, NATO không nên tuyển dụng các nhà
hoạt động mạng đến làm việc cho các cơ quan chính phủ Mỹ hoặc châu Âu. Thay vào
đó, NATO nên áp dụng cách tiếp cận gián tiếp, nhằm giảm khả năng bị bác bỏ và
tránh gây bất mãn cho những hacker có tình cảm chống chính phủ.
Thay vì thuê hacker và chỉ đạo hoạt động của họ,
NATO có thể gợi ý về các mục tiêu không gian mạng có tầm quan trọng chiến lược
đặc biệt. Ví dụ, các đơn vị mạng của NATO có thể thành lập các tổ chức bình
phong nhằm chỉ điểm các cơ quan chính phủ Nga ít được biết đến hơn, các công ty
Nga sản xuất các sản phẩm quân sự, và các tổ chức được cho là đang thực hiện
các nỗ lực không gian mạng của Nga.
Gây tranh cãi hơn một chút, NATO cũng có thể hỗ
trợ ‘chuyển giao kiến thức’ – tìm ra các cách thức sáng tạo để làm lộ mã lập
trình, hoặc lỗ hổng zero-day có thể giúp hacker tấn công vào các mạng của Nga.
Các quốc gia thành viên NATO cũng nên bắt đầu xem xét các biện pháp để bảo vệ
hacker hoạt động trên lãnh thổ của họ khỏi trách nhiệm pháp lý và truy tố từ
Nga và các đồng minh.
3. Cung cấp các
phương tiện tác chiến không người lái.
Máy bay không người lái Bayraktar TB2 do Thổ
Nhĩ Kỳ sản xuất gần như là vũ khí trên không duy nhất của Ukraine đạt được
thành công trong việc chống lại lực lượng mặt đất của Nga. Đây là một thành
tích đáng chú ý, nếu xét đến sức mạnh của lực lượng phòng không Nga, những người
đã vô hiệu hóa thành công máy bay chiến đấu có người lái của Ukraine, và số lượng
nhỏ máy bay không người lái TB2 được cấp cho Ukraine. Cân nhắc đến độ lớn của đội
hình xe bọc thép Nga, và khả năng phòng không tầm ngắn có vẻ khá kém của nước
này, việc cung cấp nhiều máy bay không người lái cũng như các loại vũ khí sử dụng
máy bay không người lái có thể tạo ra sự khác biệt trong việc làm gián đoạn các
đường tiếp tế và làm chậm đường tiến của quân Nga. Bất kỳ kho cấp nhiên liệu hoặc
đạn dược nào do người Nga tạo ra trên đất Ukraine cũng có thể trở thành những mục
tiêu hấp dẫn.
Azerbaijan đã liên tục sử dụng máy bay không
người lái trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh năm 2020 để đánh bại quân đội kiểu
Nga của Armenia. Họ đã phá hủy một lượng đáng kể thiết bị quân sự và đoàn xe của
Armenia, cuối cùng làm cho chiến dịch phải tê liệt. Người Armenia đã phải trốn
dưới lớp ngụy trang, thay vì liều lĩnh đối đầu không kích khi thực hiện hoạt động
ngoài trời hoặc tiếp tế cho các đơn vị của họ.
TB2 sẽ là ưu tiên hàng đầu, vì quân đội
Ukraine đã vận hành chúng thành thạo, nhưng chúng không phải là sự lựa chọn duy
nhất. Bán, cho mượn, hoặc tặng máy bay không người lái MQ-1 Predator và MQ-9
Reaper của Mỹ cho Ukraine là một lựa chọn khả thi, nếu Bộ Ngoại giao Mỹ chịu loại
bỏ các hạn chế xuất khẩu mà tự bộ này áp đặt dựa trên cách họ diễn giải Chế độ
Kiểm soát Công nghệ Tên lửa, và phê duyệt việc bán trực tiếp các máy bay điều
khiển bằng sóng vô tuyến này.
Trong khi chờ đợi, các quốc gia phương Tây có
thể cung cấp cho Ukraine các mẫu máy bay do Trung Quốc sản xuất, chẳng hạn như
Wing Loong, hoặc các tùy chọn thương mại sẵn có như Mavic hoặc Phantom. Một số
quốc gia – gồm Ả Rập Saudi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Nigeria –
đã mua máy bay không người lái Wing Loong sau khi Mỹ từ chối xuất khẩu Predator
có vũ trang cho họ.
Do đó, các thành viên NATO có thể tạm thời mua
một số máy bay Wing Loong để chuyển cho Ukraine, hứa hẹn sẽ cung cấp thêm các hệ
thống máy bay không người lái tốt hơn của Mỹ hoặc Israel. Máy bay không người
lái Phantom cũng có thể tăng cường thu thập thông tin tình báo cho quân đội
Ukraine, và củng cố khả năng quay phim các chiến dịch thành công, hoặc ghi lại
các cuộc tấn công của Nga vốn có thể bị truy tố là tội ác chiến tranh.
4. Cung cấp máy bay
chiến đấu thay thế.
Lực lượng Không quân Ukraine đã thể hiện khả
năng bám trụ đáng nể và đang tiếp tục làm mất ưu thế trên không của Nga, theo
đó cản trở Nga tiến hành các cuộc không kích và thiết lập cầu hàng không để tiếp
tế cho các lực lượng mặt đất của họ. Tuy nhiên, Ukraine đang chịu tổn thất rất
lớn và có khả năng sẽ hết máy bay trước khi hết phi công. Mặc dù rất khó thu thập
dữ liệu thời gian thực, nhưng báo cáo nguồn mở cho thấy Ukraine đã mất khoảng
10% trong số gần 100 máy bay chiến đấu có người lái mà nước này đang sở hữu ở đầu
cuộc chiến. Ngoài ra, khi máy bay chiến đấu được đưa vào sử dụng trên chiến trường,
với những chuyến bay thường xuyên và khó khăn, chúng sẽ bị hư hỏng và cần được
bảo dưỡng liên tục.
Theo đó, quân đội Ukraine đang rất cần máy bay
chiến đấu để duy trì lực lượng không quân của mình.
Lực lượng không quân châu Âu thường yêu cầu có
ít nhất hai phi công cho mỗi máy bay, do đó, một tỷ lệ phi công nhất định sẽ có
thể quay trở lại chiến đấu nếu máy bay của họ bị tiêu diệt – hoặc trong lúc máy
bay đang ở trên mặt đất và không có người lái, hoặc vì phi công đã xoay sở để
thoát khỏi máy bay và sống sót sau khi bị bắn hạ lúc đang ở trên không.
Trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, sau một
tuần chiến đấu tích cực, tất cả các bên tham chiến – Israel, Ai Cập và Syria –
đều hết sạch máy bay, nhưng vẫn có nhiều phi công đủ tiêu chuẩn sống sót. Việc
vận chuyển máy bay chiến đấu gấp rút từ các kho dự trữ của khối Hiệp ước Warsaw
và Mỹ đã giữ cho lực lượng không quân của hai bên hoạt động cho đến khi chiến
tranh kết thúc. Một cách tiếp cận tương tự có thể giúp Không quân Ukraine duy
trì hoạt động và việc tìm kiếm các máy bay này không phải là chuyện khó.
Phương án tốt nhất là cung cấp các loại máy
bay mà các phi công Ukraine đã biết vận hành: máy bay chiến đấu MiG-29 và máy
bay cường kích mặt đất Su-25. Ví dụ, Ba Lan có sẵn 28 chiếc MiG-29 có thể chuyển
giao ngay cho Ukraine. Dù việc cho người Ukraine sử dụng những chiếc máy bay cũ
nghe thật kì lạ, điều quan trọng là chúng là những cỗ máy mà các phi công
Ukraine đã biết vận hành, và các thợ máy Ukraine đã biết sửa chữa. Vì MiG-29 và
Su-25 là những máy bay có từ thời Liên Xô, NATO sẽ không có những chiếc mới hơn
của hai dòng này để gửi đi. Và việc cung cấp cho Ukraine những chiếc F-16 hoặc
các máy bay phản lực khác do NATO sản xuất sẽ đòi hỏi các phi công và thợ máy
Ukraine phải trải qua quá trình đào tạo chuyên sâu trước khi có thể sử dụng
chúng trong chiến đấu.
Một kế hoạch điều máy bay Ba Lan tới Ukraine gần
đây đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới truyền thông, trước khi bị Mỹ bác bỏ.
Tuy nhiên, kế hoạch chuyển giao này vẫn có thể được thực hiện theo cách lặng lẽ
và giảm thiểu rủi ro leo thang. Vì Ba Lan và Ukraine có chung đường biên giới,
nên người Ba Lan có thể di chuyển những chiếc MiG-29 của họ đến những con đường
nằm cạnh Ukraine và người Ukraine sau đó có thể kéo chúng qua biên giới – giống
với cách người Mỹ lách Đạo luật Trung lập vào năm 1940, khi bố trí máy bay dọc
theo biên giới Canada, nơi chúng được kéo vào Canada và đưa đến Vương quốc Anh.
5. Tuyển dụng phi
công tình nguyện và nhân viên mặt đất.
Ngoài máy bay, Không quân Ukraine sau này sẽ cần
thêm phi công và nhân viên mặt đất để tiếp tục bay. Điều đó đặt ra một tình huống
lưỡng nan khác, vì phải mất nhiều thời gian để đào tạo phi công cũng như đội bảo
dưỡng, và những vai trò này không thể dễ dàng được đảm nhiệm bởi các tình nguyện
viên địa phương hoặc các quân nhân khác. Chương trình đào tạo cũng phải phù hợp
với loại máy bay sẽ sử dụng hoặc bảo trì. Dù NATO và các chính phủ phương Tây
khác sẽ ngần ngại cung cấp trực tiếp phi công quân sự, họ vẫn có thể giúp đỡ
theo những cách ít leo thang hơn, và dễ bề phủ nhận hơn nếu bị cáo buộc, chủ yếu
bằng cách sử dụng nhóm tình nguyện viên Đông Âu.
Trước khi Mỹ chính thức tham gia Thế chiến 2,
Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ, Franklin D. Roosevelt, đã cho phép các phi công của
Lực lượng Không quân, Hải quân, và Thủy quân Lục chiến Mỹ lái máy bay do Mỹ sản
xuất, hỗ trợ cho Trung Quốc chống lại Nhật Bản. Nhóm 99 phi công này – những
người trở thành Đội Tình nguyện Mỹ, hay còn gọi là phi đội “Hổ
bay” – đã giải ngũ khỏi lực lượng vũ trang Mỹ, được Công ty Chế tạo Máy bay
Trung ương thuê lại, và sau đó ra nước ngoài để làm phi công cho Trung Quốc. Những
phi công này được trả lương cao hơn phi công Mỹ và phi công Trung Quốc thông
thường, và họ tham gia chiến dịch này khi đã hiểu rõ rằng họ vẫn được hoan
nghênh tái gia nhập lực lượng vũ trang Mỹ. Phi đội Hổ bay cuối cùng đã giúp
ngăn chặn các cuộc tấn công của Nhật ở Miến Điện, bằng cách tranh giành ưu thế
trên không của Nhật.
Một mô hình tương tự có thể được áp dụng để hỗ
trợ Ukraine. Các phi công tình nguyện và nhân viên mặt đất từ các nước NATO
đang vận hành máy bay tương tự như máy bay mà Ukraine sử dụng (ví dụ: Bulgaria,
Ba Lan và Slovakia) có thể được cho phép vắng mặt trong các lực lượng vũ trang,
hoặc lực lượng dự bị quốc gia của họ, sau đó được quân đội Ukraine thuê theo hợp
đồng, và được cấp cả quân hàm lẫn hộ chiếu Ukraine.
Dù Nga đã tuyên bố sẽ đối xử với các máy bay
chiến đấu nước ngoài như lính đánh thuê, nhưng việc làm như vậy đối với một phi
công bị bắn rơi đang mặc đồng phục Ukraine và mang hộ chiếu Ukraine sẽ vi phạm
Công ước Geneva. Điều đó có nghĩa là, để giảm thiểu rủi ro, các thành viên của
bất kỳ nhóm tình nguyện nào kiểu này cũng nên bị giới hạn chỉ thực hiện các nhiệm
vụ bay cách xa rìa chiến trường, để nếu chẳng may bị bắn hạ, họ chắc chắn sẽ
đáp xuống vùng lãnh thổ do Ukraine nắm giữ. Nếu xung đột kéo dài, chương trình
này có thể được mở rộng để bao gồm đào tạo cập nhật cho cả các phi công và nhân
viên mặt đất chưa có kinh nghiệm lái máy bay thời Liên Xô.
6. Đảm bảo hoạt động
liên tục của chính phủ Ukraine.
Một trong những chìa khóa để kéo dài sự kháng
cự của người Ukraine là chuẩn bị cho tình huống mà Kyiv, thủ đô của Ukraine,
rơi vào tay người Nga. Việc Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky quyết định ở
lại Kyiv và bảo vệ thủ đô của mình đã tiếp thêm sức mạnh cho cuộc kháng chiến của
Ukraine và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế.
Tuy nhiên, phía Nga đã ưu tiên bắt hoặc giết
các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự cấp cao của Ukraine ngay từ đầu cuộc xâm
lược. Và lực lượng Nga rất có thể đạt được mục tiêu này trong trận chiến sắp tới
ở Kyiv.
Do đó, chính phủ Ukraine cần chỉ định và công
bố kế hoạch để duy trì tính liên tục của chính phủ, trong trường hợp Nga tìm được
cách bắt hoặc giết Zelensky và các cấp dưới chủ chốt của ông. Tất nhiên,
Zelensky sẽ không chịu rời bỏ thủ đô nếu vẫn còn khả năng kháng cự. Do đó, bất
kỳ kế hoạch thực tế nào cũng cần phải thành lập một chính phủ kế thừa song
song, đặt tại một khu vực tương đối an toàn (và không được tiết lộ) ở miền tây
Ukraine, và chính phủ này phải được chuẩn bị để ngay lập tức đảm nhận các nhiệm
vụ của Tổng thống Zelensky và nội các của ông, trong trường hợp một người hoặc
toàn bộ chính phủ này không thể thực hiện nhiệm vụ được nữa.
Việc lập kế hoạch chặt chẽ vì sự liên tục của
chính phủ vừa đảm bảo rằng người dân Ukraine sẽ coi chính quyền kế nhiệm là hợp
pháp, vừa là dấu hiệu cho Nga biết rằng họ không thể chấm dứt xung đột, ngay cả
khi họ thành công trong cuộc tấn công ‘chặt đầu’. Ngoài ra, Ukraine nên bắt đầu
lập kế hoạch tiếp tục kháng chiến có tổ chức từ các địa hình dễ phòng thủ hơn,
có thể là ở đâu đó trên dãy núi Carpathian, miền tây Ukraine.
Ví dụ tương tự gần đây nhất là Chính phủ Quốc
phòng của Pháp trong Chiến tranh Pháp-Phổ. Khi quân Phổ cố gắng chiếm Paris vào
năm 1870 và 1871, chính phủ Pháp đã tự phân chia thành ba nhánh. Tổng thống
Pháp lúc bấy giờ là Louis-Jules Trochu vẫn ở lại Paris đang bị bao vây, để củng
cố tinh thần của hàng lính phòng thủ; trong khi đó Quốc hội Pháp chuyển trụ sở
ra xa chiến tuyến, đến Bordeaux; còn Bộ trưởng Nội vụ Léon Gambetta thì đến
đóng tại Thung lũng Loire, nơi ông giám sát các nỗ lực quân sự nhằm giải phóng
Paris. Do chính phủ của Pháp đã được chia nhỏ, người Phổ không thể chấm dứt chiến
tranh bằng cách bắt giữ một trong ba bộ phận của nó.
Tất nhiên, phần lớn công việc sẽ cần được thực
hiện bởi chính phủ của Zelensky. Nhưng các quốc gia phương Tây có thể trợ giúp
bằng cách đưa ra lời khuyên về việc triển khai kế hoạch, tạo điều kiện cho các
liên kết thông tin liên lạc, đồng thời gửi thiết bị và nguồn lực để giúp củng cố
(các) địa điểm thay thế đã lựa chọn.
Không có hành động nào trong số những hành động
này tự nó cung cấp một sự đảm bảo rằng Ukraine sẽ không thất bại quân sự dưới
tay Nga. Mỗi phương án đều đi kèm với khả năng leo thang. Tuy nhiên, leo thang
thường là một bước đi cần thiết để buộc đối thủ phải thay đổi hướng đi. Theo
đó, các quốc gia thành viên NATO và các đối tác nên cân nhắc những đề xuất này
khi đánh giá cách thức hỗ trợ Ukraine. Rốt cuộc thì các biện pháp hiện tại khó
có thể giúp cán cân quân sự nghiêng về phía có lợi cho Ukraine vì chúng làm kéo
dài xung đột, và do đó làm kéo dài sự chịu đựng của người dân nước này.
Chúng ta cũng không nên tự lừa dối mình: Nguy
cơ leo thang luôn hiện hữu, bất kể phương Tây thực hiện hành động nào để hỗ trợ
Ukraine. Putin đã cho thấy rằng ông ta sẽ tự tạo ra một cái cớ, nếu đối thủ quá
thông minh để không đưa cho ông một cái cớ. Do đó, NATO nên chuẩn bị cho cả kịch
bản rằng Putin có thể chọn coi những nỗ lực hiện tại là hành vi gây chiến
(casus belli), nếu ông ta muốn có xung đột trực tiếp với liên minh. Cho đến
nay, luận điệu của Putin có tác dụng răn đe NATO cao hơn những gì NATO đang làm
để răn đe Putin phạm tội ác chống lại loài người. Tiếp tục chịu bị chi phối bởi
chiến dịch thao túng nhận thức của Putin sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng
cho NATO.
Đánh trúng thời điểm là điều quan trọng: như mọi
khi, phương Tây phải cẩn thận tinh chỉnh phản ứng của mình đối với Nga, nhưng đồng
thời, phải nhớ kỹ rằng việc cho phép Putin thành công trong cuộc xâm lược tàn bạo
của ông ta đối với một quốc gia dân chủ láng giềng sẽ gây nên các tác động đối
với an ninh toàn cầu, điều không nên bị làm ngơ hay được phép xảy ra chỉ vì
chúng ta hành động không đủ.
------------------
Lưu
ý: Các quan điểm trên đây là của các tác giả và không đại diện cho quan điểm
hoặc lập trường chính thức của bất kỳ bộ phận nào trong chính phủ Mỹ hoặc Vương
quốc Anh.
—
David
A. Deptula là một Trung tướng Không quân Mỹ đã nghỉ hưu, người
đã lên kế hoạch cho các chiến dịch không quân ở Iraq vào năm 1991 và Afghanistan
vào năm 2001, đồng thời từng hai lần là chỉ huy lực lượng đặc nhiệm chung. Ông
là viện trưởng Viện Nghiên cứu Hàng không Vũ trụ Mitchell và là học giả cấp cao
tại Trung tâm Phát triển Tính cách và Lãnh đạo của Học viện Không quân Mỹ.
Marc
R. DeVore là giảng viên cấp cao tại Trường Quan hệ Quốc tế của
Đại học St. Andrews. Ông đã từng tư vấn cho việc hoạch định chính sách quốc
phòng ở Hàn Quốc, Thụy Sĩ và Cộng hòa Trung Phi.
Emma
Salisbury là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Birkbeck, Đại học
London. Các nghiên cứu của bà tập trung vào nghiên cứu và phát triển quốc phòng
ở Mỹ và tổ hợp công nghiệp – quân sự. Bà cũng là một nhân viên cấp cao tại Nghị
viện Vương quốc Anh.
Michael
Hunzeker là giáo sư tại Trường Chính sách và Chính phủ Schar
của Đại học George Mason, đồng thời là phó giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu
Chính sách An ninh của trường. Ông từng phục vụ trong Thủy quân Lục chiến từ
năm 2000 đến năm 2006.
*
Nguồn: David A. Deptula, Marc
R. DeVore, Emma Salisbury, và Michael Hunzeker, “Six
Things NATO Can Do to Help Ukraine Right Now”, Foreign Policy,
16/03/2022.
No comments:
Post a Comment