Friday, February 18, 2022

CHIẾN LƯỢC MỚI CỦA MỸ TẠI KHU VỰC INDO-PACIFIC & QUAN HỆ ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN GIỮA KHÔNG QUÂN MỸ và VIỆT NAM (Đào Văn)

 



Chiến Lược Mới Của Mỹ Tại Khu Vực Indo-Pacific & Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện Giữa Không Quân Mỹ và Việt Nam

Đào Văn

18/02/2022

https://vietbao.com/a311200/chien-luoc-moi-cua-my-tai-khu-vuc-indo-pacific-quan-he-doi-tac-toan-dien-giua-khong-quan-my-va-viet-nam

 

Tạp chí  của Bộ Không quân  Hoa Kỳ  có tên  là THE  JOURNAL OF INDO-PACIFIC AFFAIRS vào ngày  13.12.2021 vừa qua, loan tải bài viết về " Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ - Việt Nam và vai trò then chốt của Không quân", nhưng trước hết xin lược qua bản văn  do  Tòa Bạch Ốc phổ biến  ngày 11.2.2022  về chiến lược mới của Mỹ tại khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, nguồn (link) chính bản gồm 19 trang kèm  bên dưới.

 

 Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ

 

Chính quyền Biden-Harris đã đạt được những bước tiến lịch sử nhằm khôi phục vai trò lãnh đạo của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và điều chỉnh vai trò của Mỹ  cho thế kỷ 21. Vào năm ngoái, Hoa Kỳ đã hiện đại hóa các liên minh lâu đời của mình, củng cố các mối quan hệ đối tác mới quan hệ và tạo dựng các liên kết sáng tạo  hầu cùng  đáp ứng những thách thức cấp bách, từ vấn đề cạnh tranh với Trung Quốc, đến vấn đề biến đổi khí hậu và đại dịch. Hoa Kỳ đã làm được như vậy vào thời điểm các đồng minh và đối tác trên toàn thế giới đang ngày càng tăng cường sự tham gia vào khu vực  Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; qua một hiệp định rộng rãi, được lưỡng đảng trong Quốc hội Hoa Kỳ hậu thuẫn. Sự cam kết với khu vực,  phản ánh một thực tế không thể phủ nhận: Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là khu vực năng động nhất trên thế giới và tương lai của nó ảnh hưởng đến mọi người ở khắp mọi nơi.

Thực tế đó là cơ sở Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Chiến lược này phác thảo tầm nhìn của Tổng thống Biden nhằm bảo đảm vững chắc vị thế của Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và củng cố khu vực trong tiến  trình này. Trọng tâm chính của nó là sự hợp tác bền vững và sáng tạo với các đồng minh, đối tác và các tổ chức, trong khu vực và xa hơn nữa. Hoa Kỳ sẽ theo đuổi một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương:

   TỰ DO và RỘNG MỞ

 

 Các lợi ích quan trọng của Hoa Kỳ và của các đối tác thân cận nhất đòi hỏi một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở,  các chính phủ có thể đưa ra lựa chọn của riêng họ và được quản lý hợp pháp. Chiến lược của chúng tôi bắt đầu bằng việc tăng cường khả năng phục hồi, phát triển một khu vực tự do  và rộng mở, bao gồm:

• Đầu tư vào các thể chế dân chủ, báo chí tự do và một xã hội dân sự sôi động.

• Cải thiện tính minh bạch tài khóa ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để ngăn ngừa tham nhũng và thúc đẩy cải cách.

• Đảm bảo các vùng biển và bầu trời của khu vực được quản lý và sử dụng theo luật pháp quốc tế.

• Thúc đẩy các phương pháp tiếp cận phổ biến đối với các công nghệ quan trọng, internet và không gian mạng

  KẾT NỐI

 

 Một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở chỉ có thể đạt được nếu chúng ta xây dựng năng lực tập thể cho một thời đại mới. Các liên minh, tổ chức và quy tắc mà Hoa Kỳ và các đối tác đã giúp xây dựng phải được điều chỉnh. Chúng tôi sẽ xây dựng năng lực tập thể trong và ngoài khu vực, bao gồm:

• Làm sâu sắc thêm hiệp ước liên minh  với 5 nước trong  khu vực giữa Hoa Kỳ  với Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ROK), Philippines và Thái Lan.

• Tăng cường mối quan hệ với các đối tác hàng đầu trong khu vực, bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Mông Cổ, New Zealand, Singapore, Đài Loan, Việt Nam và các đảo Thái Bình Dương

•  Đóng góp cho một ASEAN thống nhất và có thực quyền

• Tăng cường Bộ tứ và thực hiện các cam kết của mình

• Hỗ trợ liên tục sự trỗi dậy của Ấn Độ và vai trò lãnh đạo khu vực

• Hợp tác để xây dựng khả năng phục hồi ở các quần đảo Thái Bình Dương

• Tạo kết nối giữa Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và Châu Âu - Đại Tây Dương

• Mở rộng sự hiện diện ngoại giao của Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương
   
TRIỂN VỌNG

 

Sự thịnh vượng của Mỹ ngày càng gắn liền với Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thực tế đó đòi hỏi các khoản đầu tư để khuyến khích đổi mới, tăng cường khả năng cạnh tranh kinh tế, tạo ra công việc được trả lương cao, xây dựng lại chuỗi cung ứng và mở rộng cơ hội kinh tế cho các gia đình trung lưu: 1,5 tỷ người ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu toàn cầu trong thập kỷ này. Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy sự thịnh vượng khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, bao gồm:

• Đề xuất một khuôn khổ kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương, qua đó chúng

tôi sẽ:

   - Phát triển các cách tiếp cận mới về thương mại hầu đáp ứng các tiêu chuẩn cao về lao động và môi trường.

   - Hoạch định và điều hành các nền kinh tế kỹ thuật số , các nguồn dữ liệu xuyên biên giới theo các nguyên tắc mở, bao gồm thông qua một khuôn khổ nền kinh tế kỹ thuật số mới.

    - Nâng cao các chuỗi cung ứng linh hoạt và an toàn, đa dạng, cởi mở và có thể dự đoán được.

    - Đầu tư chung vào việc khử thải cacbon và tạo năng lượng sạch.

• Thúc đẩy thương mại và đầu tư tự do, công bằng và cởi mở thông qua Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), bao gồm cả năm đăng cai 2023 của chúng ta.

• Thu hẹp khoảng cách về cơ sở hạ tầng của khu vực thông qua Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn với các đối tác G7.

BẢO MẬT

 

Trong 75 năm, Hoa Kỳ đã duy trì sự hiện diện quốc phòng mạnh mẽ và thích ứng cần thiết để hỗ trợ hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng trong khu vực. Chúng tôi đang mở rộng và hiện đại hóa vai trò đó cũng như nâng cao khả năng của mình để bảo vệ lợi ích của mình và ngăn chặn sự xâm lược vào  lãnh thổ Hoa Kỳ cũng như chống lại sự xâm lược vào lãnh thổ các đồng minh và đối tác của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tăng cường an ninh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, sử dụng tất cả các nguồn lực để ngăn chặn sự xâm lược và chống lại sự cưỡng ép, bao gồm:

 

• Nâng cao khả năng răn đe tổng hợp.

• Tăng cường hợp tác và  khả năng tương tác với các đồng minh và đối tác.

•  Duy trì hòa bình và ổn định trên eo biển Đài Loan.

•  Đổi mới để hoạt động trong các môi trường có mối đe dọa đang phát triển , bao gồm không gian, an ninh mạng và các lĩnh vực công nghệ quan trọng và mới nổi.

• Tăng cường khả năng răn đe và  mở rộng phối hợp với các đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản, đồng thời theo đuổi việc phi hạt nhân hóa hoàn toàn Bán đảo Triều Tiên.

• Tiếp tục cung cấp các nguồn dẫn đến AUKUS.

•  Mở rộng sự hiện diện và hợp tác của Cảnh sát biển Hoa Kỳ nhằm chống lại các mối đe dọa xuyên quốc gia khác.

•  Làm việc với Quốc hội để tài trợ cho Sáng kiến Răn đe Thái Bình Dương và Sáng kiến An ninh Hàng hải (Pacific Deterrence Initiative and the Maritime Security Initiative).

TÔN TRỌNG


Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hiện tại  phải đối mặt với những thách thức xuyên quốc gia lớn. Trong khi đó, biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các sông băng ở Nam Á tan chảy và các quần đảo trên Thái Bình Dương hiện  phải đối diện với mực nước biển dâng cao. Đại dịch COVID-19 tiếp tục gây ra nhiều thiệt hại về người và kinh tế trên toàn khu vực. Và các chính phủ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang phải vật lộn với thiên tai, khan hiếm tài nguyên, xung đột nội bộ và thách thức về quản trị. Nếu không được kiểm soát, sẽ dẫn đến nguy cơ gây mất ổn định trong khu vực. Hoa Kỳ sẽ xây dựng khả năng phục hồi trong  khu vực nhằm đối phó với các mối đe dọa xuyên quốc gia trong thế kỷ 21, bao gồm:

•  Làm việc với các đồng minh và đối tác để phát triển các mục tiêu chiến lược, kế hoạch và chính sách năm 2030 và 2050 phù hợp với việc hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu lên 1,5 độ C.
•  Giảm tính dễ bị tổn thương của khu vực trước tác động của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường.
•  Chấm dứt đại dịch COVID-19 và củng cố an ninh y tế toàn cầu. [1]


Theo nhận xét của các cơ quan truyền thông ngoài khu vực,  sở dĩ chính phủ Mỹ đương nhiệm phải  "khôi phục vai trò lãnh đạo của Mỹ tại khu vực" vì chính phủ tiền nhiệm đã huỷ bỏ hiệp ước TPP tạo lợi thế cho Trung Quốc  bành trướng trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. 


  Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ - Việt Nam và vai trò then chốt của Không quân

 

Phần sau tóm lược trích đoạn  bản văn  ngày  13.12.2021 trên tạp chí   THE  JOURNAL OF INDO-PACIFIC AFFAIRS, của Bộ Không quân  Hoa Kỳ:

 

Chính phủ, Quân đội và Không quân Việt Nam chia sẻ mối quan ngại của Hoa Kỳ về chủ nghĩa bành trướng và xâm nhập của Trung Quốc ở Biển Đông và họ muốn có thêm viện trợ của Hoa Kỳ trong việc xây dựng năng lực quốc phòng và phát triển khả năng quân sự của họ. Hợp tác an ninh của Hoa Kỳ và sự hỗ trợ dành cho Việt Nam sẽ là một phần quan trọng trong việc xây dựng quan hệ đối tác toàn diện và nâng cao khả năng can dự vào tranh chấp đang diễn ra với Trung Quốc. Việc Việt Nam mua máy bay T-6 của Hoa Kỳ để đào tạo phi công Lực lượng Phòng không-Không quân (ADAF) Việt Nam và mối quan hệ ADAF với Không quân Hoa Kỳ (USAF) sẽ là nền tảng của quan hệ đối tác trong những năm 2020 và là một phần quan trọng trong chiến lược của Hoa Kỳ nhằm giúp Việt Nam thoát khỏi sự phụ thuộc vào vũ khí của Nga và cũng như phụ thuộc vào ảnh hưởng của Trung Quốc. Nó cũng sẽ đóng góp vào chiến lược xây dựng quan hệ đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

 

• Cách tiếp cận

 

Trong số các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam là đáng chú ý nhất, vì là đối tác của Hoa Kỳ, ủng hộ trật tự dựa trên luật lệ cũng như một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, và có đội ngũ lãnh đạo sẵn sàng cộng tác với USAF. Việt Nam luôn phải đương đầu vào các tranh chấp với Trung Quốc về Biển Đông trong nhiều thập kỷ và gần đây đã trở thành một đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Dựa trên các phương pháp từ nghiên cứu thực địa , với  bằng chứng từ các nguồn từ khu vực Đông Nam Á và Hoa Kỳ, bao gồm các cuộc phỏng vấn và bài báo xuất bản gần đây về các vụ đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông. 


   -Thứ  nhất, phân tích Chiến lược của Việt Nam và Lực lượng Phòng không (ADAF) và những gì họ muốn Hoa Kỳ và USAF làm để xây dựng và phát triển năng lực.   

    -Thứ hai,  đánh giá những gì Hoa Kỳ và USAF muốn Việt Nam và Lực lượng Phòng không (ADAF) làm, đặc biệt là để chống lại  về  những răn đe của Trung Quốc.

    -Thứ ba, đánh giá cách Hoa Kỳ và USAF có thể vượt qua các rào cản, thúc đẩy lợi ích chung và sáng tạo trong hợp tác với Việt Nam và ADAF.

    -Thứ bốn, cuối cùng, cân nhắc các kịch bản khác nhau về cách thức mà Hoa Kỳ và USAF hợp tác  với Việt Nam và ADAF có thể thay đổi và phát triển để đáp ứng các mục tiêu an ninh trong tương lai, bao gồm cả việc cung cấp khả năng răn đe trong khu vực  Biển Đông.

 

• Chiến lược và Chính sách quốc phòng của Việt Nam

 

ĐCSVN đã phát triển một chiến lược  để tồn tại chế độ nhằm chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc nhưng  tránh xung đột khu vực. Các ưu tiên an ninh quốc gia hàng đầu của Việt Nam bao gồm bảo vệ chủ quyền bằng cách đảm bảo Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) có đủ năng lực cần thiết để thực thi luật pháp và bảo vệ các lợi ích về lãnh hải mà nước này tuyên bố chủ quyền.


   -Thứ  nhất, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) dài 200 dặm và thềm lục địa ở Biển Đông, mà nước này coi là có lợi ích quan trọng. Đảng CSVN trước tiên lo lắng về mối đe dọa trong nước từ các lực lượng đối lập nội bộ  

   - Thứ hai về Trung Quốc ở Biển Đông và ở biên giới phía bắc của họ.  ĐCSVN đã học được bài học từ sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết - để thúc đẩy chủ nghĩa tư bản nhưng sử dụng mọi cách cần thiết để bảo toàn quyền lực .Các nhà lãnh đạo Đảng đã đặt ra mục tiêu an ninh quốc gia là tăng trưởng GDP hàng năm 6% mà họ tin rằng đảm bảo ổn định nội bộ. Tại Biển Đông, việc đánh bắt và sản xuất năng lượng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và tiếp tục tăng trưởng kinh tế.

   - Thứ ba, nước này đang chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc bằng cách vun đắp mối quan hệ thân thiết với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, cũng như  Singapore, Malaysia và các quốc gia Đông Nam Á khác.

 

Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam (ADAF) thực thi tất cả các trách nhiệm phòng không của đất nước và đóng vai trò là cơ quan tham vấn cho BQP về các vấn đề liên quan đến phòng không. ADAF phải xây dựng sự đồng thuận trong BQP để thúc đẩy chương trình nghị sự của mình. ADAF hỗ trợ hải quân và tuần duyên để bảo vệ lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông, phối hợp với các cơ quan khác trong các hoạt động hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HA/DR), và đóng góp vào phát triển kinh tế. Vũ khí phòng thủ của ADAF là sự kết hợp của tên lửa đất đối không (SAM) và máy bay chiến đấu  bảo vệ  lãnh thổ Việt Nam khỏi các cuộc tấn công của Không quân Quân đội Giải phóng Nhân dân  TQ (PLAAF). Trong khi các máy bay chiến đấu MiG-21 của ADAF thường ít khi cất  cánh và các máy bay khác đang dần lỗi thời, các hỏa tiễn SAM của họ là thước đo về ưu thế trên không phận Việt Nam. Michael Beckley ước tính rằng ADAF SAM, bao gồm SPYDER của Israel và S-300 của Nga, có thể bắn hạ gây thiệt hại nặng nề khi các máy bay chiến đấu của PLAAF  Trung Quốc xâm nhập không phận Việt Nam, .  Ngoài ra, ADAF còn có 35 máy bay chiến đấu Su-30MK2V với hỏa tiễn chống hạm Kh-31  và có 18 căn cứ không quân.

 

Trong khi Việt Nam đang mua thêm máy bay chiến đấu Su-30MK2V và Su-27 từ Nga, Quân chủng Phòng không đang tìm cách đa dạng hóa quan hệ của họ mà không cần mua một đội máy bay quá đa dạng. Trong quan hệ  giữa  ADAF với Nga, hiện đã và đang thua kém Ấn Độ, Israel, Pháp và đặc biệt là Hoa Kỳ. Năm 2018, Việt Nam đã chú ý đến việc mua máy bay huấn luyện T-6 cho ADAF từ Hoa Kỳ. Ngoài ra, Ấn Độ đang cung cấp một khoản bù đắp cho việc đào tạo của Nga, và ADAF đã gửi các học viên đến Ấn Độ. ADAF liên tục tham gia với các lực lượng không quân của Hoa Kỳ, Ấn Độ, Úc và Nhật Bản, thuộc Bộ tứ QUAD.

 

• Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ - Việt Nam

 

Kể từ khi Trung Quốc tuyên bố đường chín đoạn năm 2009 và quân sự hóa các tiền đồn ở Hoàng Sa và Trường Sa năm 2015, Việt Nam ngày càng xích lại gần Hoa Kỳ hơn, và  quan hệ này ấm lên rõ rệt. Trong khi người dân Việt Nam ủng hộ Hoa Kỳ hơn so với với Trung Quốc, ĐCSVN  nhận thức được sự cần thiết phải cân bằng quan hệ với hai cường quốc. Việt Nam tuy không phải là  đồng minh của Hoa Kỳ nhưng có liên quan mật thiết về chiến lược đối phó  với Trung Quốc. Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bao gồm việc giúp Việt Nam phát triển trở thành một quốc gia mạnh mẽ, thịnh vượng và độc lập. Các quan chức Việt Nam hài lòng về Chiến lược An ninh Quốc gia năm 2017 và Chiến lược Quốc phòng Quốc gia năm 2018 của Hoa Kỳ và việc họ nhấn mạnh vào việc cạnh tranh với Trung Quốc, cũng như việc Hoa Kỳ chống lại Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc. Hướng dẫn An ninh Quốc gia Tạm thời năm 2021 của chính quyền Biden đã duy trì  chiến lược cạnh tranh với Trung Quốc như một ưu tiên hàng đầu. Mặt khác, ĐCSVN  ẩn chứa lo ngại về “hai con voi giẫm cỏ”, trong đó Hoa Kỳ có quan điểm cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và làm tăng nguy cơ xung đột.

 

Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ đầu tư nhiều hơn vào Đông Nam Á, tăng cường hỗ trợ  ĐCSVN (CPV) để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc (Vietnam would like the United States to invest more in Southeast Asia, shore up domestic support for the CPV, and reduce dependency on China). Các chuyến thăm của tổng thống Hoa Kỳ được hoan nghênh nhằm  thúc đẩy gia tăng mối quan hệ nhiều hơn nữa. Việc bành trướng của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như tầm quan trọng của Biển Đông, cho nên Hà Nội muốn Hải quân Hoa Kỳ hiện diện nhiều hơn, đặc biệt là các hàng không mẫu hạm để cân bằng với Trung Quốc. Việt Nam ưa thích các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Hoa Kỳ và các hoạt động về hàng không xung quanh Trường Sa và Hoàng Sa, và muốn Mỹ tích cực hơn nữa, nhưng không thể bày tỏ công khai  vì không muốn  xung đột với Trung Quốc. Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ giúp đỡ trong việc đối phó với Campuchia, quốc gia liên minh với Trung Quốc và gây lo ngại  Việt Nam bị bao vây (Vietnam would like US help in dealing with Cambodia, which is allied with China and causing fears of encirclement). Cuối cùng, Hà Nội mong muốn được giúp đỡ nhiều hơn nữa cho các nạn nhân chất độc da cam.

 

Hoa Kỳ đang cố gắng cạnh tranh tại Việt Nam với BRI của Trung Quốc và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á, đồng thời đang sử dụng Đạo luật Xây dựng và nguồn vốn của Tổ chức Tài chính Phát triển Quốc tế để hỗ trợ xây dựng các bến cảng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Long Sơn, khu vực phía Nam và Chân Mây ở miền Trung, nơi nhập khẩu khí hóa lỏng (LNG) của Hoa Kỳ. Ngoài ra, Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ nhằm chống lại BRI có thể bao gồm việc xây dựng đường dây tải điện từ dự án sông Mê Kông ở Lào đến Việt Nam. Cuối cùng, Hoa Kỳ có thể giúp Việt Nam bằng cách kiểm toán các hợp đồng BRI để phát hiện ra các hành vi tham nhũng của Trung Quốc trong việc phát triển Dự án sông Mekong.

 

• Quan hệ Đối tác Quốc phòng Toàn diện với Việt Nam

 

Năm 2011, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết biên bản ghi nhớ đầu tiên về quân sự đối với quân đội và mối quan hệ đối tác đã đạt được những bước tiến quan trọng trong thập kỷ tiếp theo. Hai nước thường xuyên trao đổi các chuyến thăm cấp cao về quốc phòng và quân sự. Trong vòng chưa đầy một năm sau khi khôi phục quan hệ quân sự, một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã đến thăm, và các chuyến ghé cảng đã tiếp tục hầu như hàng năm kể từ đó; một tàu ngầm Hoa Kỳ cũng đã đến thăm. Hoa Kỳ đã làm việc với Việt Nam về đào tạo về gìn giữ hòa bình và huấn luyện và diễn tập HA/DR. Họ cũng đã kín đáo hợp tác với Hoa Kỳ  về đào tạo và cứu nạn (S&R), cố gắng tránh khiêu khích Trung Quốc.  Việt Nam quan tâm đến quan hệ đối tác và cam kết hơn so với các đối tác khác của Hoa Kỳ. Việt Nam muốn tỏ ra quyết đoán hơn trước  về các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông và muốn Hoa Kỳ cung cấp khả năng lớn hơn. Việt Nam liên tục phải đối đầu với Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng trong hiện tại đã không được hỗ trợ quân sự trực tiếp từ Hoa kỳ mà chỉ nhận được  sự hỗ trợ về ngoại giao.

 

Hợp tác an ninh của Hoa Kỳ với Việt Nam bao gồm các cuộc tập trận, đặc biệt là sự kiện thường niên qua Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) ở và xung quanh Hawaii, với các khóa huấn luyện thực tế đã đặc biệt giúp phát triển Hải quân của Việt Nam. Các đơn vị cánh quạt của  Quân chủng phòng không tiến hành các cuộc tập trận với các đối tác Hoa Kỳ, tập trung vào HA / DR và bố trí nhân sự. Các cuộc tập trận cũng tập trung vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, bao gồm các hướng dẫn viên y tế và các chuyên gia của Liên Hợp Quốc chứng kiến các cuộc tập trận. Các chuyên gia của Chương trình Đối tác Nhà nước từ Vệ binh Quốc gia Oregon tham gia các cuộc tập trận HA/DR và RIMPAC, tạo cơ hội cho việc xây dựng mối quan hệ lâu đời giữa quân nhân Hoa Kỳ và quân nhân Việt Nam. Các quan chức quốc phòng Mỹ đánh giá Việt Nam tuy chưa sẵn sàng tham gia các cuộc tập trận đa phương ở Đông Nam Á như Cobra Gold hay Balikatan, nhưng đã cử quan sát viên.


Nếu Việt Nam mua hệ thống SAM S-400 của Nga thời sẽ bị ràng buộc bởi  Đạo luật chống đối thủ của Mỹ đối với Nga , có thể sẽ dẫn đến các lệnh trừng phạt vì loại hỏa tiễn này  có khả năng bắn hạ máy bay chiến đấu F-35 của Mỹ. Việc Thổ Nhĩ Kỳ mua hệ thống phòng không S-400 của Nga đã dẫn đến việc Ankara bị trục xuất khỏi chương trình F-35. Ngoài ra, việc Việt Nam trang bị hệ thống SAM S-300 cũ hơn của Nga cũng được coi là có vấn đề. Nếu Việt Nam sử dụng hệ thống S-400 mới hơn, Hoa Kỳ sẽ phải quyết định xem họ có nên áp đặt các biện pháp trừng phạt hay miễn trừ.

 

• Đối tác USAF ( Mỹ)-ADAF (Việt Nam)

 

Chương trình của Hoa Kỳ và USAF làm việc với quân đội Việt Nam và đặc biệt là ADAF sẽ là nền tảng của mối quan hệ đối tác toàn diện lớn hơn và đang được quản lý cẩn thận. Hiện tại, ADAF đã có nhiều cuộc tập trận với Hoa Kỳ hơn với Nga hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, và đã có các cuộc hội họp hàng năm giữa giới chức lãnh đạo  không quân cao nhất của ADAF Việt Nam và USAF Hoa Kỳ .  Sự tham gia của ADAF đã được Quân ủy Trung ương Việt Nam xem xét kỹ lưỡng và tán thành.  Các quan chức Việt Nam bày tỏ sự đánh giá cao đối với gói T-6 và sự thành công của chương trình  tuần tra  của Cảnh sát biển Hoa Kỳ, trái ngược với sự không hài lòng của Việt Nam đối với các trang thiết bị của Nga. Các quan chức Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội tin rằng việc bán T-6 thể hiện sự chuyển hướng chiến lược từ Nga sang Hoa Kỳ sẽ là một phần quan trọng trong việc giúp Việt Nam thoát khỏi sự phụ thuộc vào vũ khí Nga cũng như vào ảnh hưởng của Trung Quốc.

 

Những thách thức đối với Quan hệ Đối tác và Khuyến nghị của USAF Hoa Kỳ - ADAF Quân chủng Không quân Việt Nam  phải đối mặt với một số thách thức.


   - Thứ  nhất , khả năng bay của phi công ADAF cần được cải thiện đáng kể. Hiện tại, các phi công chỉ sử dụng các quy tắc bay ảo hoặc véc tơ radar trong điều kiện thời tiết hoàn hảo và không có kinh nghiệm về điều kiện thời tiết xấu. Các phi công có số giờ bay hạn chế và việc phụ thuộc vào thiết bị mô phỏng đã khiến các phi công gặp lỗi trong ba vụ tai nạn (CASA C-212, Su-22 và Yak-52) trong những năm gần đây.

   - Thứ hai, ADAF sẽ bay T-6 với cách tiếp cận khác với USAF và sẽ được gắn vào hệ thống phòng không tích hợp của Việt Nam.

   - Thứ ba, ADAF đã vạch ra kế hoạch T-6 trong môi trường  không gian  khi họ cần chuyên môn kỹ thuật của Hoa Kỳ,  so với thỏa thuận về tầu tuần tra của Cảnh sát biển Hoa Kỳ thời  ít kỹ thuật hơn và cần ít sự giám sát hơn, còn thương vụ T-6 đòi hỏi sự giám sát của Văn phòng Hợp tác Quốc phòng Hoa Kỳ tại Hà Nội và các SME của USAF. Vì   Hoa Kỳ và USAF cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. 

 

• Kết luận

 

Trong thời gian tới, các quan chức Việt Nam và Hoa Kỳ tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục mở rộng và tìm kiếm sự kiểm soát rộng lớn  hơn đối với Biển Đông về các nguồn tài nguyên của nước này. Hoa Kỳ, USAF, Việt Nam và ADAF, cả hai bên đều muốn có quan hệ đối tác bền chặt hơn nhưng vì những lý do hơi khác nhau và ở các mức độ và tốc độ khác nhau. Những thách thức là đáng kể, tuy nhiên, có những cách mà Hoa Kỳ và USAF có thể tham gia một cách sáng tạo và  với ý chí và nỗ lực sáng tạo đúng mức, Hoa Kỳ và USAF, Việt Nam và ADAF có thể cùng nhau vượt qua và đưa mối quan hệ tiến lên. Hoa Kỳ đã phát đi tín hiệu rằng Mỹ đã sẵn sàng với quyết tâm để cố gắng ngày càng đưa Việt Nam vào một mạng lưới đa phương đang phát triển ủng hộ một “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Với mức độ quan tâm và ý chí của Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng tăng, nhìn chung triển vọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược và quan hệ USAF-ADAF mang tính xây dựng là tích cực. Kịch bản có khả năng xảy ra nhất là Trung Quốc tiếp tục gia tăng mở rộng, còn  Hoa Kỳ và Việt Nam tiếp tục từ từ xây dựng  quan hệ đối tác toàn diện theo hướng chiến lược và hướng tới quan hệ USAF-ADAF mạnh mẽ hơn. Các kịch bản khác bao gồm sự gây hấn của Trung Quốc, Việt Nam giao tiếp với Hoa Kỳ để có quan hệ đối tác chiến lược, quan hệ USAF-ADAF mạnh mẽ hơn và từ  chương trình T-6 sẽ tiến đến việc mua máy bay chiến đấu F-15E hoặc F-16 tiên tiến nhất (... moving toward acquisition of the most advanced F-15E or F-16 fighter aircraft. )

 

Việc phát triển khả năng răn đe chống lại Trung Quốc trong khu vực sẽ đòi hỏi một quan hệ đối tác đa phương, theo đó các nước cam kết hành động phối hợp trong trường hợp PLA hành động gây hấn tại  khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Khả năng răn đe trong khu vực sẽ đòi hỏi một quan hệ đối tác đa phương mạnh mẽ, bao gồm cả việc xây dựng lực lượng không quân một cách bài bản với sự viện trợ của Hoa Kỳ và Không quân Hoa Kỳ. Các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và Việt Nam cùng lực lượng không quân của họ cần tiếp tục thảo luận về tình hình chiến lược ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và vai trò của họ trong việc cung cấp khả năng răn đe. USAF và ADAF có thể đóng một vai trò trong việc ngăn chặn vị thế thống trị của Trung Quốc trong khu vực bằng cách phát triển một triển vọng chung cũng như các chiến lược và khả năng tương ứng để ngăn chặn Trung Quốc xâm phạm sâu hơn tại Biển Đông và ngăn chặn xâm phạm các quyền lợi của Việt Nam.

 

Trong việc vượt qua các trở ngại, Hoa Kỳ và USAF có thể thực hiện các sáng kiến để giúp ADAF Việt Nam trở thành một lực lượng quan trọng trong khu vực. Hoa Kỳ và Không quân Hoa Kỳ có thể hỗ trợ đào tạo và trang bị, bao gồm cả việc Việt Nam mua và phát triển các máy bay chiến đấu đa năng của Hoa Kỳ, điều này sẽ giúp quá trình đào tạo và phát triển phi đội diễn ra nhanh hơn.  Hoa Kỳ cần tiếp tục xây dựng quan hệ đối tác với Việt Nam chủ yếu thông qua các hình thức đối thoại, mô phỏng và tập trận cũng như hỗ trợ và trao đổi an ninh. USAF  Hoa Kỳ và PACAF Việt Nam có thể dẫn đầu trong việc phát triển đối tác trong khi tránh mối giao dịch kiểu nước lớn.  Hoa Kỳ và Không quân Hoa Kỳ nên tiếp tục thúc đẩy về máy bay, vũ khí và các thiết bị khác của Hoa Kỳ với mục tiêu dài hạn. Hoa Kỳ nên làm việc với Việt Nam để xây dựng năng lực và phát triển khả năng nhằm đưa ADAF Việt Nam trở thành một lực lượng quan trọng trong khu vực.[2]

 

 Indonesia  mua 36 máy bay chiến đấu F-15 của Mỹ  và 42 máy bay Rafale của Pháp

 

Indonesia đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện khả năng phòng không  của mình. Trong khi ký một thỏa thuận lớn với Pháp về việc mua 42 máy bay chiến đấu Rafale, phía Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chấp thuận việc bán 36  máy bay F-15ID cho Indonesia.

 

Yêu sách của Trung Quốc đối với hơn 80% Biển Đông, bao gồm cả vùng biển xung quanh Natuna, đã tạo ra sự tranh chấp, điều này đã  khiến Jakarta tăng cường khả năng phòng thủ, nhanh chóng thực hiện  thỏa thuận  mua máy bay.  Máy bay chiến đấu Rafale  của Pháp cho phép Indonesia duy trì khả năng phòng thủ hiệu quả trước Lực lượng Không quân PLA của Trung Quốc. Ngoài ra, khu vực địa chiến lược của Indonesia khiến nước này trở thành một khu vực chính trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương nói chung nhằm chống lại sự phát triển của Trung Quốc trong khu vực.


Thỏa thuận của Rafale được đưa ra khi Paris  đang cố gắng tăng cường quan hệ địa chính trị ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sau khi liên minh AUKUS  gồm các nước Mỹ, Anh và Australia hình thành vào năm ngoái. Theo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp Florence Parly, Indonesia sẽ là quốc gia thứ hai ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, sau Ấn Độ, dựa vào công nghệ của Dassault Aviation  Pháp quốc.


• “Chúng tôi có kế hoạch mua 42 chiếc Rafale”

 

Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia Prabowo Subianto cho biết trong cuộc họp với Parly. Đối tác chiến lược của chúng tôi sẽ mang lại lợi ích lâu dài  trong  mối quan hệ quốc phòng của Indonesia, ”ông Parly nói. Ông nói thêm, giai đoạn đầu tiên của hợp đồng, bao gồm sáu máy bay phản lực Rafale, sẽ được hoàn thành trong những tháng tới và 36 chiếc khác sẽ đến vào cuối năm nay hoặc năm sau.


Rafale là một máy bay phản lực của Pháp có khả năng thực hiện một loạt các nhiệm vụ tầm ngắn và tầm xa, bao gồm kiểm soát và bảo vệ đường không, tấn công chống hạm và răn đe hạt nhân. Vũ khí chiến đấu cơ Rafale bao gồm tên lửa trên không Mica, Magic, Sidewinder, ASRAAM và AMRAAM,

 

• Việc Indonesia mua 36 máy bay F-15ID của Mỹ đã được phê duyệt

 

Ngoại trừ Rafales, Indonesia sẽ sớm được trang bị một trong những máy bay chiến đấu hàng đầu của Mỹ, F-15ID. Theo Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng của Bộ Quốc Phòng, Boeing là nhà thầu hàng đầu về máy bay F-15. Thỏa thuận này  bao gồm 36 máy bay phản lực, động cơ dự phòng, radar, đào tạo tầm nhìn ban đêm và hỗ trợ kỹ thuật.[3]

 

– Đào Văn

 

Nguồn:

 

[1]  The White House: INDO-PACIFIC STRATEGY OF THE UNITED STATES .pdf

 

[2]  Dept. of the Air Force:The US–Vietnam Comprehensive Partnership and the Key Role of Air Force Relations/

 

[3]  The Press United:US-Indonesia F-15 Fighter jets deal approved for $14B

 





No comments:

Post a Comment