21/01/2022
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/vui-ca-xang/
Tác giả xin cám ơn Giáo sư Trần Huy Bích đã giúp nhiều
tài liệu cần thiết cho bài viết này.
http://vanviet.info/wp-content/uploads/2022/01/clip_image002_thumb7.jpg
Hình minh họa Chinh
Phụ Ngâm do tác giả, nhà văn Trùng Dương cung cấp.
Gần đây tôi có dịp xem video của Thúy Nga
Paris trình diễn ba bài Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 của Lê Thương. Sự dàn dựng cảnh
trí, các màn phụ diễn đều công phu, tạo nên một không khí chinh chiến ngày xưa,
và nhất là giọng hát của các ca sĩ đều hay, diễn tả thành công chủ đề mà mình
trình diễn.
Tiếc thay trong bài Hòn Vọng Phu 1, lời hát có
sai một chữ, nhưng chữ đó lại rất quan trọng, làm biến đổi cả không khí của bài
hát mà nhạc sĩ Lê Thương đã cố công dựng nên khi sáng tác Hòn Vọng Phu. Đó là
câu nguyên văn của tác giả:
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài
ngàn
đã được ca sĩ Thế Sơn hát là:
Vui ca xong rồi đi
tiến binh ngoài ngàn
Thật là một sai lầm đáng tiếc.
Chúng ta đều biết Lê Thương thuộc vào hàng nhạc
sĩ kỳ cựu của nền tân nhạc Việt Nam, đã bắt đầu sáng tác từ những năm cuối của
thập niên 1930 những ca khúc như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu…, và từ
đó tiếp tục sáng tác và để lại cho đời một di sản âm nhạc to lớn sau khi ông từ
trần năm 1996 tại Sài Gòn, thọ 82 tuổi.
Riêng liên khúc Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 sáng
tác trong thập niên 1940 là một tác phẩm rất quan trọng của ông, chất chứa mênh
mang âm hưởng và tình cảm dân tộc, được xem như một trường ca đầu tiên của Việt
Nam. Có thể nói không ngoa rằng nhạc điệu lẫn lời ca của liên khúc Hòn Vọng Phu
đã thấm nhuần trong tình cảm người Việt Nam một cách rộng rãi và sâu xa nhất,
có lẽ trong lịch sử của nền tân nhạc chưa dài lắm của đất nước chúng ta chưa có
tác phẩm nào đạt được vị trí ấy.
Được xem là “trường ca” trong nền âm nhạc Việt
Nam cho tới ngày nay không nhiều. Xưa nhất là Hòn Vọng Phu gồm ba bài trong dạng
chuyện kể, mà bài Hòn Vọng Phu 1 đã được sáng tác năm 1943, các bài 2 và 3 cũng
được hoàn tất sau đó mấy năm trong thập niên 1940.
Tiếp theo là bài Trường Ca Sông Lô của Văn Cao
sáng tác năm 1947, ca ngợi một chiến công trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khoảng giữa thập niên 1950 xuất hiện một trường
ca cũng trong dạng ba ca khúc nối tiếp nhau, đó là Hội Trùng Dương của Phạm
Đình Chương, viết về ba con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long như là hình
tượng thống nhất của nước Việt Nam.
Rồi mãi đến đầu thập niên 1960 trường ca Con
Đường Cái Quan, và giữa thập niên 1960, trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy mới
ra đời.
Đó là những trường ca đúng nghĩa, có giá trị
nghệ thuật cao, đứng vững với thời gian cho đến nay. Nhưng nếu có ai đặt câu hỏi:
trong các bài trường ca ấy, bài nào được người dân hát nhiều nhất, nhớ nhiều nhất,
phổ biến trong dân chúng rộng rãi nhất, thì câu trả lời sẽ là: Hòn Vọng Phu,
trong đó Hòn Vọng Phu 1 thấm nhuần trong dân chúng sâu đậm nhất.
Vì sao nhạc sĩ Lê Thương đặt tên tác phẩm của
mình là Hòn Vọng Phu? Vì ở tỉnh Lạng Sơn giáp giới với nước Tàu có một quả núi
trên đó sừng sững một hòn đá lớn có hình thù trông giống như một người đàn bà
đang ôm đứa con, đứng nhìn ra phía xa như đang mong đợi một ai đó. Dân gian Việt
Nam đặt tên bức tượng do thiên nhiên tạo ra ấy là Hòn Vọng Phu, tức là hòn đá
có hình người đàn bà ôm con trông chờ chồng về. Có lẽ cảm xúc vì lối đặt tên đó
của dân gian hàm ý lịch sử đất nước chúng ta có nhiều chinh chiến – với người
Trung Hoa phía Bắc suốt một chiều dài của lịch sử lúc nào cũng muốn chiếm nước
ta để sáp nhập vào nước Tàu. Cái tâm thức “chờ chồng về” từ chiến trận của người
phụ nữ Việt Nam có lẽ vẫn tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc như một đặc tính do
hoàn cảnh lịch sử mang lại, khiến cho khi thấy một hòn đá trên núi giống hình
người mẹ ôm con thì dân chúng đặt ngay tên là Hòn Vọng Phu – Hòn Chờ Chồng. Đó
là một cách nhìn thiên nhiên mà cảm ứng với tâm trạng dài dằng dặc của dân một
xứ nhiều giặc giã, thật là ý nghĩa và cảm động.
Nhạc sĩ Lê Thương, một nhạc sĩ thuộc thế hệ
theo tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, chỉ nhìn hòn đá đó mà hòa nhập với một cảm
thức rộng lớn của dân tộc qua suốt một lịch sử lâu dài: lịch sử của các cuộc
chiến không ngừng để giữ nước, mà hòn đá chờ chồng là một tiêu biểu đầy cảm động
trên một mặt khác của chiến tranh. Ông đã sáng tác ba bài Hòn Vọng Phu để nói về
hào khí của cuộc xuất quân, về nỗi nhớ mong của người vợ có chồng đi chinh chiến,
cho đến ngày về của người chinh phu. Điểm đặc sắc của ba hòn vọng phu là đều
mang đầy âm hưởng cổ kính của dân tộc, về nhạc cũng như về lời. Trải qua nhiều
năm tháng, trải qua nhiều thế hệ, trường ca Hòn Vọng Phu vẫn được trình diễn và
được thưởng ngoạn như một tác phẩm hàng đầu của dân tộc.
Đến đây người viết xin phép được mở một dấu
ngoặc để lạm bàn về một cách diễn đạt khác về người chờ chồng Tô Thị. Ngoài Lê
Thương, hình tượng vọng phu còn được nhạc sĩ Phạm Duy nhắc đến trong trường ca
Con Đường Cái Quan của ông. Không khác Lê Thương, Phạm Duy cũng cảm nhận cái
truyền thuyết vọng phu bàng bạc trong đời sống tinh thần và tình cảm của dân tộc
Việt Nam, và nhìn nó gần như là một tín ngưỡng trong tâm thức của dân gian: thờ
phượng sự sắt son chờ đợi và sự hóa đá của người đàn bà chờ chồng. Trong hành
trình từ Bắc vào Nam, ngay đoạn đầu người lữ khách Phạm Duy đã hát
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai
Và khuyên người chẳng tái hồi
Cho ngàn năm được sống đời… vọng phu!
Phạm Duy đã biến sự chờ đợi gần như một tín
ngưỡng, người đứng chờ mong cho người mình thương yêu đừng về, để cho nàng… hóa
đá thì nàng mới có thể đứng mãi ngàn năm mà chờ. Đúng là Phạm Duy đã nâng sự chờ
đợi thành một thách đố của lòng kiên gan, như một phép tu để cô kết thể xác và
tinh thần biến thành một trạng thái cứng rắn vĩnh viễn: hóa đá. Đá như một kết
quả tu chứng của đạo… chờ chồng! (xin đóng ngoặc).
Quay lại với Hòn Vọng Phu của Lê Thương, chúng
ta có bổn phận phải gìn giữ sự nguyên vẹn của tác phẩm này như một viên ngọc
quý, đừng để thời gian và sự thiếu ý thức gây nên những vết trầy xước đáng tiếc.
Bài viết này hôm nay xin đề cập đến một chữ
trong bài Hòn Vọng Phu 1 có khi bị hát sai, đó là chữ ca xang trong
câu Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn. Trước khi đi vào
việc phân tích và tìm hiểu chữ, nghĩa, chúng tôi mời độc giả xem kỹ lời bài Hòn
Vọng Phu 1 trong bản nhạc xuất bản năm 1955, do chính tác giả Lê Thương giữ bản
quyền.
Câu “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn”
đã được in trong bản này. Các bản Hòn Vọng Phu 1 khác được tái bản ở miền Nam
trước 1975 cũng đều giống như bản này, về nhạc cũng như về lời. Vậy chúng ta có
thể xem đây là bản gốc, in lần thứ nhất, do chính tác giả chủ trương xuất bản
và giữ bản quyền.
Khảo sát một số mục trình diễn Hòn Vọng Phu 1
trong thời gian trước 1975 cho đến nay, chúng tôi ghi nhận hầu hết hát đúng hai
chữ “ca xang”: Tiếng hát Thái Thanh trước 1975; ban hợp xướng Ngàn Khơi tại
California; đĩa nhạc của Asia với Hoàng Oanh, Thanh Lan, Duy Quang; Album Tuyển
chọn Duy Khánh; ca sĩ Đức Tuấn (trong nước); một ca đoàn của người Pháp trình
diễn tại Pháp, v.v. Một vài nơi hát “ca xong” như Thúy Nga Paris, hoặc “ca
vang” như tôi có bắt gặp đâu đó, nhưng tương đối hiếm hoi.
Chúng tôi nghĩ sở dĩ có trường hợp hát sai
đáng tiếc như thế, là do người hát không hiểu nghĩa chữ “ca xang” là gì, cho là
do bản nhạc in sai, và mình có nhiệm vụ tìm chữ đúng để hát. Từ “ca xang” đổi
sang “ca xong”, được lắm, dễ hiểu hơn nhiều, nhất là nó có thể gợi ý có một
“party” ca nhạc với nhiều ca nhi để tiễn vị tướng lên đường, và khi phần ca nhạc
vừa chấm dứt (ca xong) là cuộc xuất quân bắt đầu… Hoặc đổi thành “ca vang”, một
cách nói rất quen thuộc để tả tiếng hát to một cách mạnh mẽ. Chứ xang là
cái gì nghe lạ hoắc, hát lên nghe cũng chướng tai, ngượng miệng!
Nhưng thiết nghĩ thái độ chung của người trình
diễn là phải tôn trọng nguyên tác của tác giả, nếu có gì không hiểu thì nên tìm
hiểu chứ không nên tự đặt lời khác để hát theo ý mình. Đây là một tệ nạn cần phải
tránh, nhất là đối với những tác phẩm đã thành cổ điển.
Đó là về phần người trình diễn. Trong những
bài văn viết về tác phẩm Hòn Vọng Phu, một số tác giả đã diễn dịch không đúng
nghĩa gốc của chữ “xang”. Chẳng hạn đưa ra một định nghĩa chữ “xang” theo ý
riêng của mình mà không giải thích và dẫn chứng nguồn gốc ngôn ngữ. Ngay một số
bản dịch lời Hòn Vọng Phu 1 sang tiếng Pháp, tiếng Anh được tìm thấy trên
Internet, cũng không theo đúng nguyên bản lời hát của Lê Thương là “ca xang” mà
dịch chữ “ca xong”.
Riêng đối với những ai hiểu chữ “ca xang” thì
thấy câu hát ấy thật hay, vì vang lên một âm hưởng rất cổ kính, giữa khung cảnh
xuất quân của một võ tướng ngày xưa. Vậy “ca xang” là gì?
Chúng ta cùng đi tìm chữ ấy trong sách vở cũ.
Từ "xang" có trong tiếng Việt từ rất
lâu, và được ghi trong tất cả những tự điển tiếng Việt có danh tiếng từ thế kỷ
17 tới nay:
1) Tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes (1651):
Xang: agitate corpus ambulando (vừa đi vừa lắc
thân thể)
2) Tự điển Việt-Latin (Dictionarium
Anamitico-Latinum) của GM. Taberd (1838):
Xang: manum altè extollere (nâng tay lên cao)
3) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của
Huỳnh Tịnh Của (1895-96):
Xang: giang tay, đưa tay lên, múa men.
4) Tự điển Việt-Pháp (Dictionnaire
annamite-français) của Jean Bonet (1900):
Xang: lever les bras, gesticuler, jouer,
danser (nâng tay lên cao, làm cử chỉ, chơi đùa, nhảy múa)
5) Việt Nam Tự Điển của Hội
Khai Trí Tiến Đức (1931):
Xang: giang tay, giơ tay lên.
6) Việt Nam Tự Điển của Lê
Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970-71):
Xang: giang tay, múa men.
7) Tự Điển Tiếng Việt của Viện
Ngôn Ngữ Học (Hoàng Phê chủ biên, 2003):
Xang: đưa qua đưa lại (“chân xang qua xang lại”).
Tuy có một số tiểu tiết khác biệt nhỏ qua các
thời, từ “xang” cho ta một ý niệm động: nâng tay lên cao, giang tay, múa men.
Một điều ai cũng nhận thấy, là khi sáng tác
Hòn Vọng Phu 1, Lê Thương đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của tác phẩm Chinh Phụ
Ngâm, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, do Đoàn Thị Điểm dịch sang thơ Việt.
Riêng câu hát “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” cũng có thể tìm
thấy dấu vết từ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm qua Chinh Phụ Ngâm.
Nguyên câu chữ Hán trong Chinh Phụ Ngâm:
Trịch ly bôi hề, vũ Long tuyền
(Quăng chén rượu tiễn, múa kiếm Long tuyền)
Câu ấy được dịch là:
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Cuối buổi tiệc tiễn hành, người tráng sĩ ra đi
ném chén rượu, cầm gươm lên múa.
Những hình ảnh “quăng chén rượu tiễn, múa
gươm” đã thành những hình ảnh ước lệ để diễn tả sự hăng hái của kẻ ra đi.
Vào thế kỷ 19, Tôn Thọ Tường, một viên quan
văn, nhưng khi được chọn sang Pháp dù chỉ để làm nhiệm vụ thông dịch, cũng hăng
hái viết:
Múa gươm, quăng chén, cất mình đi
Bịn rịn đâu màng thói nữ nhi.
Sau câu:
Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn
Lê Thương cho biết người chinh phu đã “vui ca
xang” trước khi “tiến binh ngoài ngàn.” Ông muốn nói chàng đã ca hát và
múa (có thể là múa gươm, có thể chỉ là múa chân tay không). Đó là những
hình ảnh đã thành ước lệ để chỉ sự hăng hái của kẻ ra đi.
Nếu đổi “vui ca xang” thành “vui ca vang” hay
“vui ca xong,” chúng ta sẽ vô tình làm mất đi cái hình ảnh hào hùng đã thành ước
lệ ấy.
Đến đây thiết tưởng chúng tôi cũng đã tạm làm
xong công việc bênh vực cho một chữ bị hát sai. Một góp ý rất nhỏ, nhưng mong rằng
cũng góp phần để giữ gìn sự nguyên vẹn cho một tác phẩm giá trị của văn hóa Việt
Nam.
Little Saigon ngày 29 tháng 12 năm 2021
(bổ túc một số chi tiết ngày 20 tháng 01,
2022)
No comments:
Post a Comment