Người
Nam bộ xưa ăn tết qua bài viết của học giả Vương Hồng Sển
Trầm Thanh Tuấn
20:59 | Thứ
sáu, 28/01/2022
https://nguoidothi.net.vn/nguoi-nam-bo-xua-an-tet-qua-bai-viet-cua-hoc-gia-vuong-hong-sen-33516.html
Vương Hồng
Sển (1902-1996), bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai, là một nhà văn
hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ Việt Nam. Ông được xem là người có hiểu biết
sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt
Nam. Khi qua đời ông đã hiến tặng ngôi nhà (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ
cổ của mình cho Nhà nước.
Trên Tập
san Sử Địa số 05, 30.1.1967, tòa soạn đã đăng bài viết “Cảm tưởng về Tết
trong Nam” của cụ Vương (viết ngày 13 tháng 12 năm 1966). Với cái nhìn hoài niệm
về Tết khoảng thập niên 30 – 40 của thế kỷ trước, tác giả đã đề cập đến những
chi tiết rất cụ thể về những cổ tục mà một số bây giờ đã biến đổi hoặc không
còn nữa.
Cũng như
miền Bắc, miền Trung người miền Nam bắt đầu đón tết từ việc quét tước dọn dẹp
nhà cửa sau một năm làm ăn tất bật, tay lấm chân bùn “Mấy chục năm về
trước, Miền nam gồm toàn người củi lụt làm ăn, đầu tắt mặt tối, quanh năm chơn
lấm tay bùn, lặn lội eo sèo trong sình lầy nước thúi, chỉ có mỗi lần Tết đến mới
có dịp nhớ đến ngôi nhà đang ở và ra công quyét tước dọn dẹp từ trên trang thờ
đến bếp núc ông Táo ông Vôi, một năm chỉ có một lần ấy mà thôi”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/b5a0e0bb-bbbb-4069-aa29-7c35e6fb1fdf.jpg
Người miền
Nam xưa vẫn giữ lệ trồng cây nêu “Nhà nào có vườn có sân thì đốn tre trồng
nêu để nhắc lại cổ tục chầu xưa, nhà nào ở chợ búa phố xá hẹp hòi thì cũng treo
cờ trước cửa cho gió bay mấp máy thấy đủ vui mắt”. Cây nêu ở đây là
cây tre dài khoảng 5-6m, được dựng trước sân nhà vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch,
là ngày Táo quân chầu Trời. Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ như cái túi nhỏ đựng
trầu cau và ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ. Khi có giỏ thổi chúng chạm
vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh, rất vui tai.
Người ta
tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất,
là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy
nhiễu…
Trong những
ngày Tết cổ truyền, vào buổi tối trên cây nêu có nơi còn treo một đèn lồng nhằm
chỉ đường cho tổ tiên biết đường về ăn Tết với con cháu. Cây nêu thường được dựng
vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới
đêm Giao thừa vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu,
nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/e631bc77-52db-4b4e-94ac-4e789656d437.jpg
Người miền
Nam xưa vẫn giữ tục dán liễn đối vào hai bên cột, nơi bàn thờ gia tiên với những
câu đối mang ý nghĩa giáo huấn, ca tụng công đức của tiên tổ. “nhà nhà
bất luận sang hèn, dẫu ọp ẹp bằng tre lợp lá chằm lá khíu, cũng có đôi liễn mới
dán đỏ cột”.
Trên bàn
thời gia tiên ở miền Nam thường có chưng lộc bình và bộ lư hương. Năm hết tết đến
nhà nhà đem bộ lư hương xuống làm sạch gọi “chùi lư”. Khi “chùi lư” phải chùi
thật sạch để bộ lư sáng loáng “trên bàn thờ tổ tiên sao sao cũng có lộc
bình, quả tử, nhứt là phải có bộ lư đồng và cặp chưn đèn thau o bế chùi bóng
nhoáng rất nên thơ”.
Thế nên
trong cái nhìn hoài niệm, cụ Vương cảm thán khi hồi tưởng lại những năm tháng
tuổi thơ: “Nhớ đến phong tục chùi lư mà tiếc hối buổi xuân thời: lúc
nào còn bé thơ, mãi sợ nạn chùi lư vì mỏi tay thêm mất dịp đi xin bánh và đi lượm
pháo tịt ngòi. Nay đã khôn già thì người lớn đã khuất hết, tiếc cho mình nay
không còn cha mẹ để được bắt chùi lư!”. Những đoạn tiếp theo cụ Vương
Hồng Sển thể hiện sự tiếc nuối của mình vì chiến tranh tao loạn mà gia đình đã
để mất đi bộ lư hương quý.
Giờ có tiền
muốn mua lại cũng không được vì chỉ có “đồ hàng” không sắc sảo như những bộ lư
xưa: “Lối năm 1920, bộ lư đồng năm tấc bề cao, giá độ năm chục đồng bạc
lớn, nhưng năm chục đồng bạc ấy lớn thật, có bao nhiêu ấy mua sắm lung tung và
giá trị năm chục đồng bạc 1920 còn lớn hơn năm ngàn bạc ngày nay xa lắc! Có thứ
lư thau trơn dễ chùi, ở trên chóp đỉnh có đặt con lân giỡn trái châu, đứng nhe
răng cười “cầu phúc”, có thứ lư gồ ghề rất khó chùi cho bóng, vì lư làm theo kiểu
“lư mắt tre”, lư “trúc hóa lân”. Lư trơn láng thì phải lựa thứ kiểu thật rôm, xứng
trái xứng bề cao. Lư mắt tre thì phải lựa cho được thật hùng vĩ, bặm trợn, cân
xứng y gốc tre già cỗi đã biến hình thành con thú, con lân”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/7ac3eebc-b809-46e5-8483-712f750f35ac.jpg
Kế đến tác
giả đã tỉ mỉ thuật lại quá trình “chùi lư” của người miền Nam xưa “Muốn
chùi lư cho bóng, lọ là phải có dầu bóng hiệu Tây-u cho thêm tốn nhiều tiền. Miễn
có khế chua đập giập lấy nước chua chấm với tro bếp thật mặn, chấm với “c.. bần”
cọ xát thật mạnh thì bao nhiêu ten rỉ cũng sạch. Lư khéo chùi là đến khi nào
bóng sáng đến ngó thấy mặt tỏ rõ, nhưng bóng lộn không chưa đủ, thuở ấy con mắt
mỹ thuật còn kén thi nhau khoe khéo khoe tài. Giỏi chùi và biết “trau lư” là
nhà nào lư bóng như kiếng soi thêm toàn trên da đồng, tìm không thấy lằn gạch lằn
trầy, lằn rễ tre vằn sọc”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/1d8a560a-c430-444e-a811-333f5fbdb546.jpg
Người Nam
bộ xưa quan niệm nhà cửa sau một năm thì dọn dẹp cho quang quẻ thì con người
cũng thế. Sau một năm tối mắt tối muỗi với ruộng đồng thì họ cũng sẽ sắm sanh
áo mới và việc ấy cũng lại rất thiêng liêng: “Xưa muốn cắt áo phải tra
lịch lựa ngày, và trẻ nít phải đợi đến Tết mới có dịp cha mẹ may cho cái quần
lãnh Bắc Thảo hay cái áo lá liễu bằng củng xá hay hàng lụa Tứ Xuyên bền chắc”.
Do chỉ đến
cuối năm mới có áo mới, nên đó chính là niềm mong đợi của trẻ con tuy nhiên khi
đời sống vật chất được nâng lên, người ta có thể mua đồ mới cho con trẻ bất cứ
khi nào thấy cần thì niềm vui chờ đợi áo tết lại không còn vẹn nguyên như
xưa “Ngày nay đâu còn hạnh phúc mừng xuân đến “không nhắm mắt được” và
tục chờ mau đến Tết để được bận đồ mới!”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/aa0bf625-1987-4da2-922c-2e0de9d4cec3.jpg
Chơi trò đổ
Tam Hường chỉ cần có bộ hột xúc xắc (còn gọi là hột xí ngầu) và bộ thẻ, có được
một tô sứ to, sâu lòng để bung hột xúc sắc nữa thì tốt. Các thẻ trong bộ Tam Hường
được mang tên những học vị đạt được trong thi cử thời xưa. Cách chơi chỉ cần
bung vào tô sứ 6 hột xúc xắc, qua các mặt xúc xắc hiện lên, theo quy định mà
người chơi giật được thẻ Trạng nguyên, thẻ Bảng nhãn hay Thám hoa, hay Tiến sĩ…
Tên gọi các thẻ xăm phần nào đã thể hiện khát vọng đạt được khoa bảng của sĩ tử
ngày xưa, phần nào đó cũng thể hiện được tính thanh tao của một trò chơi nho
nhã.
Trẻ con
Nam bộ xưa cũng đã chơi trò này như một thú tiêu khiển vào những ngày Tết: “Tượng
trưng “ăn Tết” đối với trẻ con buổi ấy là mỗi lần cận Tết, đêm nào cũng nghe cô
bác “đỗ Tam Hường” tiếng hột lút lắt ngà nhảy bồng trong tô da kiểu, tiếng xu bạc
khua khi chung tiền, tiếng cười giòn khi đổ được Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hoặc
khiêm tốn chỉ đỗ “Ngũ tử phò tứ”, tức là sáu hột có năm mặt chữ “Ngũ” và một mặt
tứ màu hồng”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/ff3f7610-a01f-44c2-9c3d-e21be1ce1024.jpg
Đến chiều
ba mươi Tết, người Nam bộ cũng cúng kiến để rước gia tiên về xum vầy bên con
cháu mà Vương hồng Sển gọi là cúng “vào Khem”. Cũng kể từ đây
những cử chỉ hành vi của mỗi người trong gia đình phải thủ lễ kiêng khem vì người
Nam bộ quan niệm ”Cứ từ chạng vạng tối bắt đầu phải giữ gìn cho trong
nhà bình tịnh, không nên cười lớn và khi nói phải lựa lời, cử chỉ phải thanh
bai lễ giáo vì hiểu rằng vào khem trong nhà có rước vong ông bà quá vãng về sống
chung ba ngày xuân nhựt với con cái, nên phải thủ lễ. Lại nữa cũng tin tưởng,
tin rằng đêm ba mươi rạng mồng một Tết, có ông Hành cũ và mới đến nên trong nhà
nhỏ lớn đều kiêng không “động đất”. Và cũng từ quan niệm trên đã hình thành nên
mỹ tục đẹp trong văn hóa Tết của người Nam bộ “nhiều gia giáo ngày nay còn giữ
được lệ cấm nói tục tĩu ba ngày Tết và bớt rầy la con cháu khi lâm lỗi buổi đầu
xuân, ý tốt muốn giữ là mong năm mới và suốt năm ăn nói thanh bai thì sẽ trọn
năm không xúi quảy”.
Người Nam
bộ xưa còn có những tục thú vị trong đêm trừ tịch như xem tim đèn cháy, nghe tiếng
con vật đầu tiên kêu trong năm mới để báo điềm lành: “Tết đến lại có dịp
vặn máy hát thức xem đèn dầu, tim bằng cỏ bấc trổ bông báo điềm lành và nhờ đêm
thanh tịnh không tiếng súng nổ mà cũng không tiếng máy bay rầm rầm, nên cổ nhân
canh chừng mới biết được “con thú gì ra đời”: gà gáy đem lại thăng bình hay chuột
túc con bày điềm sang năm sung túc”.
Về ăn uống,
với hương vị những loại bánh trái đặc trưng của Nam Bộ như bánh phồng, bánh tét
cũng gợi ra trong học giả Vương Hồng Sển biết bao kí ức đẹp. Đó cũng chính là
những nét đẹp của văn hóa Tết Nam bộ “tiếng chày giòn quen tai cận Tết
giã gạo làm bánh phồng dịp dầu Xuân và khói lửa chiến chinh đã dập tắt lửa cuối
năm nấu bánh tét bánh chưng. Ngày nay muốn ăn những bánh khiêu gợi Tết, đã phải
nhờ quán khách làm sẵn, chớ còn đâu lửa reo vui mắt bữa chưng bánh chung quanh
gia đình đoàn tụ, ông kỹ sư tóc hoa râm, đứng chờ bánh nói chuyện với nhà học
giả quá mùa, xúm xít gần bà mẹ tuy lụm cụm nhưng không khứng bỏ tục cổ truyền.
Hai ông tân nhơn vật tuy bụng chứa đầy văn minh Âu Mỹ, nhưng trong lòng thỉnh
thoảng vẫn thèm vẫn nhớ miếng bánh phồng nướng bằng lửa rơm thơm ngát, hay miếng
bánh nhưn đậu giữa có cục mỡ béo bùi của đòn bánh tét gói và nấu tại gia, bánh ấy
tuy xấu mặt nhưng hương vị đặc biệt đã đánh lui các bánh tây bánh ngoại quốc dồn
vào kẹt tủ buổi Tân Xuân”. Tác giả so sánh rượu Tàu, rượu Tây để rồi
đúc kết lời khuyên “Sao cho bằng uống mỹ tửu quốc hồn”. và cái
mà Vương Hồng Sển gọi là “mỹ tửu quốc hồn” chính là rượu đế Thủ Đức, “Xứ Cai Lậy
(Mỹ Tho) có đặt rượu đậu nành nước trắng trong khe, mùi thơm ngon ngọt có thua
gì rượu Tây, rượu lục vị, Pháp danh là Anisette”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/cb07d4eb-ad77-4929-affd-80459324ca5a.jpg
Ngoài ra
Vương Hồng Sển có nhắc lại một cổ tục của người Nam Bộ xưa, mà ngày nay đã mai
một “Nhắc lại một phong tục nhỏ trong Nam. Ba ngày Tết trong nầy ăn dồn
thịt kho, thịt lạp xường và vịt phơi khô, nhiều ngày quá nên lợm giọng, vì thế
qua ngày mồng bốn Tết có lệ “cúng tất”, tết nhà tết cửa. Ngày ấy nấu bữa cơm
cúng đất đai ông bà, lễ tất, đại để có tục lệ cắt giấy kim ngân ra hình vuông
hình hồ lô để dán vào cột cửa tủ bàn và dâng lên bàn thờ Tổ tiên “nồi cháo cá
ám”. Cũng thì cháo cá nhưng cháo nấu kiểu cá luộc chần thì vẫn cá luộc sơ và xắt
khúc, không để nguyên con, còn trái lại “cháo cá ám” là nấu nồi cháo rất kỹ, cá
để nguyên con không chặt ra khúc và khi nấu nồi cháo vẫn không đậy nắp vung (nấu
ám). Theo tôi đây là món thuốc vệ sanh trừ độc của ông bà lưu truyền lại, vì ba
ngày tết ăn mỡ đã nhiều, qua mồng bốn ăn tô cháo ám có rau ghém chát xắt nhỏ,
chuối cây non và rau thơm, vừa nhẹ lòng khoan khoái thêm ngon miệng, trở bữa,
nghệ thuật bí quyết trường sanh là đó!”. Có thể nói đây là một tục hay
thể hiện sự minh triết trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ.
Người Nam
Bộ từ xưa đến nay vẫn giữ tục lì xì tiền cho con trẻ mong chúng mau ăn chóng lớn
học hành giỏi giang “… độ nào phải chờ Tết đến mới có dịp cho trẻ con
thấy đồng xu đỏ au và bạc cắc phong gói trong tờ giấy làm gói “lì xì” tân niên.
Được vài ba gói trẻ đã mừng húm, nhờ vậy mà con nít chóng lớn và người lớn thấy
vậy cũng phấn khởi thấy đời thêm vui”. Tuy nhiên có thể thấy khởi nguyên tục
này xưa kia người lớn chỉ lì xì tượng trưng, chủ yếu đề cao giá trị tinh thần
thế nhưng chính từ thời Vương Hồng Sển sống mỹ tục này ít nhiều đã biến tướng
“Ngày nay đổi đời, trẻ con đi học đã có bạc ngàn bỏ túi, và thử cho trẻ một tờ
giấy bạc năm trăm, chưa thấy nó mừng bắng lớp trước đây, được thưởng nửa đồng bạc
đã cắp ca cắp củm để dành và đó là sưu tập phẩm cà rô bi (roupie) hiếm có”.
Hình : https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/ceaf1a1c-3745-4921-87bd-d7662c454faa.jpg
Bên cạnh
đó tục xin lộc đầu năm cũng đã có trong tâm thức người Nam bộ “Mấy năm
gần đây có tục lệ đầu năm đi xin xăm nơi miếu Tả Quân trong Gia Định, báo hại
các bà di cư ham hái lộc như thuở nào ở ngoài kia, báo hại kiểng cây kiểng gốc
trong Lăng trụi lủi lá cành. Xin lộc là một phong tục cổ kính của xứ có hoa đào
hoa hồng hoa thủy tiên. Đất Nam Trung ít bông nhiều lá làm gì có hoa chời chở để
hái lộc?”. Nhưng với tục này chính bản thân cụ Vương cũng đã thấy cái
thô lậu của nó không phù hợp để duy trì trong hệ thống văn hóa Tết của người
Nam bộ.
Bài viết kết
thúc bằng những trăn trở vẫn vẹn nguyên tính thời sự “Tục thờ kiếng ông bà
đã xem nhẹ hơn xưa và cái lễ Tết là lễ nhớ người chết đã trở nên ngày xả hơi
vui chơi của người sống. Chúng ta có thể giản dị hóa phần nào những gì phiền phức
rườm rà, nhưng không nên để cho mất ý nghĩa của cái Tết cổ truyền của một xứ lấy
việc nông tang làm gốc, chớ nên quá duy vật mảng ăn chơi vui sướng cho mình mà
quên câu “mộc bổn thủy nguyên” trước có ông bà sau mới có ta vậy. Theo tôi,
ngày Tết Nguyên Đán phải được bảo tồn với bao nhiêu cổ tục của nó”.
Năm mới
bàn lại bài viết cũ của cụ Vương âu cũng là cách để hiểu thêm về tấm lòng của một
con người luôn đau đáu suy tư về những giá trị hóa đẹp của Nam bộ nói riêng
cũng như của văn hóa Việt nam nói chung.
Trầm
Thanh Tuấn
No comments:
Post a Comment