Làm
sao tránh điều tệ hại nhất sẽ xảy ra cho Ukraine và Đài Loan
Jeffrey D.
Sachs -
Project-Syndicate
Đỗ Kim Thêm dịch
29/12/2021
https://baotiengdan.com/2021/12/29/lam-sao-tranh-dieu-te-hai-nhat-se-xay-ra-cho-ukraine-va-dai-loan/
Lời
người dịch: Không như Jeffrey D. Sach đơn giản hoá về sự kềm
chế của các phe trong bài viết sau đây, bối cảnh của Ukraine trở nên sôi động
hơn khi Tổng Thống Nga Vladimir Putin hôm thứ Năm, 23/12, kêu gọi phương Tây
đáp ứng “ngay lập tức” yêu cầu của Nga về bảo đảm an ninh và ngăn chặn Khối
Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO) thu nhận Ukraine làm thành viên. Putin gay gắt
nêu lên việc “chính Mỹ mới là kẻ đặt hỏa tiễn sát biên giới đất nước chúng
tôi”.
Ngược lại, khi giải thích việc Nga tăng cường
100.000 quân gần biên giới Ukraine thì Putin khẳng định đây là hành động phòng
vệ. Putin kêu gọi Mỹ và các đồng minh bảo đảm cho Nga về Ukraine theo cách mà
Putin mong muốn, còn Putin không nêu lên một bảo đảm nào về phía Nga.
Để ứng phó, riêng tại Đông Âu, hiện có khoảng 13.000
binh sĩ thuộc khối NATO, 200 xe tăng, 30 chiến đấu cơ và trực thăng, đã đóng
quân thường trực.
Giới chức Mỹ đang thảo luận với các đồng minh Châu
Âu trước cuộc đàm phán Geneva vào 10/1. Mỹ cho biết hỗ trợ cho Ukraine để bảo vệ
lãnh thổ, đồng thời sẽ có các hành động khác, ngoài những biện pháp trừng phạt
kinh tế nếu Nga tấn công Ukraine.
Không như Jeffray D. Sach kêu gọi, xung đột tại Đài
Loan đang diễn ra trong khi Tập Cận Bình lại dịu giọng đối với ASEAN, nhưng
không có nghĩa vấn đề Đài Loan sẽ được giải quyết trong êm thắm.
Thực tế mà Jeffrey S. Sach không đề cập là Tập Cận
Bình đã chuẩn bị từ lâu việc chiếm Đài Loan và trở thành “Hoàng đế Trung Hoa”.
Trong tình hình mới hiện nay, vai trò của Mỹ đang trở
nên suy yếu. Sau khi Mỹ tháo chạy khỏi Afghanistan, uy tín của Joe Biden xuống
thấp. Việc hy sinh của người lính Mỹ cuối cùng cho an ninh và dân chủ Đài Loan
là không thể tin.
Cho dù Joe Biden đã thành công nhất định trong việc
điều chỉnh chiến lược với Trung Quốc, nhưng không mang lại một sự ổn định trường
kỳ cho Đài Loan. Quan trọng nhất là yếu tố chính trị quốc nội, Đảng Cộng hoà và
dân chúng Mỹ không cho phép Joe Biden tự do hành động, dầu là kềm chế hay
không. Cho đến nay, chiến lược mập mờ của Joe Biden vẫn còn tiếp tục.
Mỹ sẽ tham chiến tại Đài Loan trong mức độ nào,
trong hay ngoài khuôn khổ Taiwan Relations Act 1979, và có thể dẫn đến chiến
tranh Ấn Độ -Thái Bình Dương hay thế giới không, nguy cơ này còn quá nhiều yếu
tố khác để thảo luận mà đặc biệt nhất là tiếng nói của Ấn Độ, Nhật Bản và Úc. Cả
ba sẽ có vai trò quan trọng hơn cho tương lai của Đài Loan.
Trong khi trật tự quốc tế đang thay đổi, các xung đột
an ninh khu vực càng trở nên khó lường đoán, tất cả các phe đều không bày
tỏ thiện chí kềm chế nào gọi là thực tế và khả thi.
Tóm lại, những động lực để cải thiện các tranh chấp
tại Ukraine và Đài Loan đang vượt ra khuôn khổ trong bài viết của Jeffrey S.
Sach. Sau đây là bản dịch.
***
Không có cấu trúc hòa bình toàn cầu nào có thể
ổn định và an toàn trừ khi tất cả các bên công nhận các lợi ích an ninh hợp
pháp của các bên khác. Nếu các cuộc khủng hoảng về Ukraine và Đài Loan được giải
quyết trong ôn hòa, các cường quốc sẽ cần phải tạm dừng và xem xét các quan điểm
chiến lược của phía bên kia.
Hai điểm nóng nguy hiểm ở châu Âu và châu Á có
thể đưa Mỹ, Nga và Trung Quốc vào cuộc xung đột mở rộng. Các cuộc khủng hoảng ở
Ukraine và Đài Loan có thể được giải quyết, nhưng tất cả các bên phải tôn trọng
lợi ích an ninh hợp pháp của các bên khác. Thừa nhận những lợi ích đó một cách
khách quan sẽ cung cấp cơ sở cho việc giảm leo thang các tình trạng căng thẳng
còn tồn tại.
Hãy xét đến trường hợp của Ukraine. Mặc dù họ
chắc chắn có quyền về chủ quyền và an ninh từ một cuộc xâm lược của Nga, nhưng
không có quyền làm suy yếu an ninh của Nga trong tiến trình này.
Cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay là kết quả của
sự vượt quá mức của cả Nga và Mỹ. Việc quá trớn của Nga nằm trong việc sáp nhập
Crimea năm 2014 và chiếm đóng trung tâm công nghiệp của Ukraine ở Donetsk và
Luhansk; và trong những nỗ lực liên tục của Nga để giữ cho Ukraine phụ thuộc
vào Nga về mặt năng lượng, duy trì việc nhập lượng công nghiệp và các thị trường.
Ukraine có lợi ích hợp pháp trong việc hội nhập chặt chẽ hơn với nền kinh tế
Liên Âu và đã ký một thỏa thuận liên kết với Liên Âu cho mục đích này. Tuy
nhiên, Điện Kremlin lo ngại rằng, tư cách thành viên Liên Âu có thể là bước dò
dẫm để Ukraine gia nhập khối NATO.
Mỹ cũng đã vượt quá giới hạn. Năm 2008, chính
quyền của Tổng thống Mỹ George W. Bush đã kêu gọi Ukraine gia nhập khối NATO,
một sự bổ sung sẽ thiết lập sự hiện diện của Liên minh ngay trên biên giới
dài của Nga với nước này. Đề xuất khiêu khích này đã phân hoá các đồng minh của
Mỹ, nhưng khối NATO vẫn xác nhận rằng, Ukraine cuối cùng có thể được chào đón với
tư cách là một thành viên, họ lưu ý rằng Nga không có quyền phủ quyết đối với
ai là người tham gia. Khi Nga sáp nhập thô bạo Crimea vào năm 2014, một trong
những mục tiêu của Nga là bảo đảm rằng, khối NATO không bao giờ có thể tiếp cận
căn cứ hải quân và hạm đội của Nga trong vùng Hắc Hải.
Đánh giá theo biên bản công khai các cuộc thảo
luận giữa Tổng thống Mỹ Joe Biden và Tổng thống Nga Vladimir Putin trong tháng
này, việc mở rộng khối NATO sang Ukraine vẫn còn trên bàn thảo luận. Mặc dù
Pháp và Đức cũng có thể duy trì mối đe dọa lâu dài của họ đối với việc phủ quyết
bất kỳ nỗ lực nào như vậy để trở thành thành viên, các quan chức của Ukraine và
khối NATO đều tái xác quyết rằng sự lựa chọn tham gia gắn liền với Ukraine. Hơn
nữa, một nghị sĩ cấp cao của Estonia đã cảnh báo rằng việc rút lại quyền gia nhập
khối NATO của Ukraine sẽ tương đương với chính sách xoa dịu của Anh đối với
Hitler vào năm 1938.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Mỹ lập luận rằng
Ukraine, dù có quyền lựa chọn liên minh quân sự của riêng mình, cũng nên
xét lại lịch sử lâu dài của đất nước họ trong sự phản đối quyết liệt đối
với sự can thiệp từ bên ngoài vào Tây bán cầu. Quan điểm này lần đầu tiên được
thể hiện trong Học thuyết Monroe năm 1823, và đã được thấy rõ rệt trong phản ứng
táo bạo của Hoa Kỳ đối với việc chuyển hướng của Fidel Castro đối với Liên Xô
sau Cách mạng Cuba năm 1959.
Khi xưa, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower
tuyên bố: “Cuba đã được bàn giao cho Liên Xô như một công cụ để làm suy yếu
vị thế của chúng ta ở Mỹ Latin và thế giới“. Ông ra lệnh cho CIA đưa ra kế
hoạch xâm lược. Kết quả là thất bại của Vịnh Con Heo (dưới thời Tổng thống John
F. Kennedy), đã thắp ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Các quốc gia không thể chỉ đơn giản là chọn
liên minh quân sự của họ, bởi vì những lựa chọn như vậy thường có ý nghĩa an
ninh đối với các nước láng giềng của họ. Sau Thế chiến II, Áo và Phần Lan đều bảo
đảm độc lập và thịnh vượng trong tương lai bằng cách không gia nhập khối NATO,
vì điều đó sẽ gây ra sự giận dữ của Liên Xô. Ukraine ngày nay cũng nên thể hiện
sự thận trọng tương tự.
Các vấn đề ở Đài Loan cũng tương tự. Đài Loan
có quyền hòa bình và dân chủ phù hợp với khái niệm về chính sách “Một Trung Quốc”,
vốn là nền tảng cho các mối quan hệ của Trung Quốc với Mỹ kể từ thời Richard
Nixon và Mao Trạch Đông. Mỹ đã hợp lý khi cảnh báo Trung Quốc chống lại bất kỳ
hành động quân sự đơn phương nào đối với Đài Loan, vì điều đó sẽ đe dọa an ninh
toàn cầu và nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cũng giống như Ukraine không có
quyền gia nhập khối NATO, Đài Loan không có quyền ly khai khỏi Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số
chính trị gia Đài Loan đã tán tỉnh với việc tuyên bố độc lập, và một số chính
trị gia Mỹ đã thực hiện quyền tự do với nguyên tắc “Một Trung Quốc”.
Sau đó, Tổng thống đắc cử Donald Trump bắt đầu
sự thoái bộ của Mỹ vào tháng 12 năm 2016, khi ông nói: “Tôi hiểu tường tận
chính sách ‘Một Trung Quốc’, nhưng tôi không biết tại sao chúng ta phải bị ràng
buộc bởi chính sách ‘Một Trung Quốc’, trừ khi chúng ta thỏa thuận với Trung Quốc
mà nó có liên quan đến những vấn đề khác, bao gồm cả thương mại“.
Sau đó, Tổng thống Joe Biden đã khiêu khích
đưa Đài Loan vào Hội nghị Thượng đỉnh vì Dân chủ trong tháng này. Trước đó, Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken ủng hộ công khai cho “sự tham gia mạnh mẽ” của Đài
Loan vào hệ thống Liên Hiệp Quốc. Những hành động như vậy của Mỹ đã làm trầm trọng
thêm căng thẳng với Trung Quốc.
Một lần nữa, những nhà phân tích an ninh Mỹ
cho rằng Đài Loan có quyền tuyên bố độc lập nên suy ngẫm về lịch sử của chính
nước Mỹ. Hoa Kỳ đã chiến đấu trong một cuộc nội chiến về tính hợp pháp của sự
ly khai, và những người ly khai đã thua. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ không dung thứ cho
sự ủng hộ của Trung Quốc đối với một phong trào ly khai ở California (cũng như
các nước châu Âu như Tây Ban Nha, nơi đã phải đối mặt với điều thực sự ở Xứ
Basque và Catalonia).
Nguy cơ leo thang quân sự đối với Đài Loan
càng tăng lên bởi tuyên bố gần đây của Tổng thư ký khối NATO Jens Stolenberg rằng
lý do tương lai của liên minh sẽ bao gồm chống lại Trung Quốc. Một liên minh được
tạo ra để bảo vệ Tây Âu khỏi sự xâm lược của một cường quốc châu Âu hiện không
còn tồn tại, không nên được tái sử dụng như một liên minh quân sự do Mỹ dẫn đầu
chống lại một cường quốc châu Á.
Các cuộc khủng hoảng Ukraine và Đài Loan có thể
được giải quyết một cách hòa bình và đơn giản. Khối NATO nên loại bỏ tư cách
thành viên của Ukraine khỏi bàn đàm phán, và Nga nên từ bỏ bất kỳ cuộc xâm lược
nào. Ukraine nên được tự do định hướng các chính sách thương mại của mình theo
cách mà họ thấy là phù hợp, miễn là họ tuân thủ các nguyên tắc của Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Tương tự như vậy, Mỹ nên tái minh xác rằng họ
kiên quyết phản đối sự ly khai của Đài Loan và không nhằm mục đích “kiềm chế”
Trung Quốc, đặc biệt là bằng cách định hướng lại khối NATO. Về phần mình, Trung
Quốc nên từ bỏ hành động quân sự đơn phương chống lại Đài Loan và tái khẳng định
nguyên tắc hai chế độ, mà nhiều người Đài Loan tin rằng đang bị đe dọa sắp xảy
ra sau cuộc đàn áp ở Hồng Kông.
Không có cấu trúc hòa bình toàn cầu nào có thể
ổn định và an toàn trừ khi tất cả các bên công nhận lợi ích an ninh hợp pháp của
bên khác. Cách tốt nhất để các cường quốc bắt đầu đạt được điều đó là chọn con
đường hiểu biết lẫn nhau và giảm leo thang đối với Ukraine và Đài Loan.
______
Jeffry D. Sachs, Giáo sư Đại học Columbia, tác
giả các sách The End of Poverty, Common Wealth, The Age of Sustainable Development, Building the New American Economy, A New Foreign Policy: Beyond American Exceptionalism,
và gần đây nhất là, The Ages of Globalization.
No comments:
Post a Comment