Monday, November 25, 2019

SỰ THẬT VỀ TRÍ QUANG & PHÁP NẠN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM (Gió Bấc)




Chủ Nhật, 11/24/2019 - 05:31 — Gió Bấc

Thích Trí Quang qua đời, như hòn đá ném xuống mặt nước gợn lên dư luận tranh cãi, đây là người của CIA hay là người tiếp tay cho Cộng Sản. Từ Hà Nội Tiến sĩ phật học Thái Kim Lan đã khẳng định trên BBC tiếng Việt là Thích Trí Quang “dấn thân bảo vệ đạo pháp và ngay cả sự im lặng của ngài (sau 1975) cũng là cách bảo vệ đạo pháp”. Đây là sự ngụy biện rất nguy hiểm dễ làm hiểu sai về phật pháp, Phật Giáo chính thống và Phật giáo xã hội chủ nghĩa cũng như vai trò của Thích Trí Quang. Vấn đề là phải làm rõ PHÁP NẠN của Phật giáo Việt Nam là gì, thật sự xảy ra từ lúc nào? Vai trò và hành xử của Trí Quang trong từng giai đoạn đó như thế nào?

Trong 96 năm tại thế (xin phép không dùng thuật ngữ phật giáo với ông Trí Quang vì e rằng như thế sẽ đánh đồng, xúc phạm các nhà xuất gia chân chính) Trí Quang có hai thái độ khác nhau rõ rệt, tương phản như trắng với đen là nhập thế từ nhỏ đến năm 1975 và xuất thế từ 1975 đến chết.

Cả hai thái độ đó là theo Khổng giáo chứ không theo Phật giáo. Từ nhỏ, Trí Quang đã xuất gia nhưng không phải để đi tu thoát tục mà chỉ là cách, phương tiện lập thân. Sau khi xuất gia, Trí Quan thoát ly theo kháng chiến và sau đó quay lại với chùa chiền để học hành tiến thân. Trí Quang là lãnh tụ của phong trào Phật giáo đấu tranh chống Ngô Đình Diệm và sau đó là cuộc biến loạn miền Trung đưa bàn thờ Phật xuống đường, lôi kéo quân đội ly khai gây ra cái chết bao nhiêu người. Những việc ấy không giới luật nào cho phép và hoàn toàn trái với đạo từ bi của Đức Phật.

PHÁP NẠN 1963 là sản phẩm của Trí Quang

Điều này không phải suy đoán mà thể hiện rõ trong Tiểu sử tự ghi của ông. “Tôi đi, và Ất Mùi 2499 (1955), nhận chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học, vận động đổi tên Phật Học ra Phật Giáo, đưa Tổng Hội Phật Giáo VN vào đặt trụ sở ở Sài Gòn. Rồi nghỉ việc cho đến Quí Mão 2507 (1963) nhận lại chức vụ nói trên. Với chức vụ này, Phật Đản năm ấy tôi phát động, và chung sức lãnh đạo, việc chống chế độ Ngô Đình Diệm”.{1}

Từ ngôn ngữ của Trí Quang lịch sử Việt Nam đã xuất hiện khái niệm “Pháp nạn Phật giáo Việt Nam” do sự đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm. Thật sự cái Pháp nạn đó là gì?

Chính Trí Quang “ra cáo trạng” như sau:
“Ông Ngô Đình Diệm muốn Thiên Chúa Giáo của ông độc tôn, muốn anh của ông là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục làm Hồng Y giáo chủ, nên ông kỳ thị đàn áp Phật Giáo. Ấp chiến lược chỗ thì rào chùa vào trong để hạn chế đi lại, chỗ thì rào chùa ra ngoài để tự do bắn phá. Khu trù mật thì bắt cán bộ cơ sở của Phật Giáo phá nhà bỏ của mà đi. Quân địch thì bắt Tăng sĩ Phật Giáo làm những chức vụ nguy hiểm mà vô quyền, để tu sĩ Thiên Chúa ra mà nắm quyền chỉ huy ngay từ hạ tầng. Giải thưởng văn chương thì thưởng cho cuốn văn chương bình dân nội dung cốt chống Phật Giáo. Chương trình tú tài C thì đổi toàn lý thuyết thượng đế và nhân vị, lại thêm một bằng ban D với cổ ngữ La Tinh. Sát hại Phật tử thì có tập thể lên đến 36 người ở một nơi cùng một lúc, không cò lẻ tẻ nữa. Cả gan huy bỏ ngày Phật Đản trong danh sách ngày lễ được nghỉ của công tư chức, và danh sách này bao giờ Thiên Chúa Giáo cũng gấp đôi Phật Giáo cả ngày và giờ nghỉ. Dụ số 10 được thêm dụ bổ túc, tăng cường sự hạ giá và kềm chế đối với Phật Giáo….”.{1}

Những cáo buộc của Trí Quang phần lớn là quy chụp và mơ hồ. Ông Diệm là giáo dân, ông Ngô Đình Thục là giám mục Công Giáo sự ưu đãi với Công Giáo trong thời này là có thực nhưng có đến mức bức hại Phật Giáo hay không thì cần xem xét.

Về sự ưu tiên sử dụng sĩ quan công giáo theo lập luận của Trí Quang là không có chứng cứ, ngược lại đa số tướng lĩnh thời ông Diệm từ Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Tôn Thất Đính….đều là phật tử. Trong chính phủ từ Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, Bộ trưởng Nội Vụ Trần Thiện Thành, Lâm Lễ Trinh, Giám Đốc An ninh Quân đội Đỗ Mậu và cả chánh văn phòng lẫn võ phòng Tổng thống….cũng đều là phật tử

Chùa tăng hơn 2000, trường rộng khắp: Có phải là PHÀP NẠN

Việc hủy bỏ ngày Phật Đản là ngày lễ với công chức thì thử hỏi từ sau năm 1975 đến nay có năm nào công chức được nghĩ lễ ngày Phật Đản không? Về việc ông Diệm duy trì Dụ số 10 có từ thời vua Bảo Đại xem Phật Giáo như các đoàn thể khác trong quản lý về tài sản đất đai. nhưng số lượng chùa chiền ở Miền Nam thời Pháp thuộc là 2.200 ngôi, thời Ngô Đình Diệm tăng lên đến 4.700 ngôi (theo Đoàn Thêm và cư sĩ Mai Thọ Truyền). Theo Đỗ Mậu, thời kỳ này hàng trăm trường trung tiểu học Bồ Đề của Phật giáo cũng được thành lập khắp miền Nam đáp ứng cho gần 20% số học sinh.

Hệ thống Phật giáo hoạt động tự do độc lập hoàn toàn vơi chính quyền không trực thuộc một tổ chức đoàn thể nào. Chính quyền cũng không can thiệp vào việc phong phẩm tước, bổ nhiệm trụ trì các chùa chiền. Ngay cao điểm xung đột Phật giáo lập ra tổ chức Ủy Ban liên phái thì chính quyền cũng tổ chức Ủy Ban Liên Bộ do Phó Thủ Tướng Nguyễn Ngóc Thơ, Bộ trưởng Vũ Văn Mẫu cùng hội nghị bình đẳng với nhau để đưa ra một tuyên bố chung gữa hai bên. Chính quyền ngồi đàm phán ngang bằng với để ra thông báo chung là điều hiếm thấy trong lịch sử.

Việc chính quyền Thừa Thiên - Huế cấm treo cờ ngoài đường trong ngày Phật Đản có thể là sự thiếu tôn trọng với nghi lễ của người dân nhưng vẫn chưa phải là sự xâm phạm đến Phật Pháp vì chân lý tối cao của Phật là cái không trống rỗng, ngay thân xác của người cũng là không thì lá cờ có nghĩa gì? Và cũng đặt thêm câu hỏi là từ sau 1975 đến nay, có khi nào cờ Phật giáo được treo ngoài đường trừ những đại lễ Verak Phật Giáo để tuyên truyền chính trị và quảng bá cho các khu du lịch tâm linh nghìn tỉ của các đại gia?

Vụ nổ làm chết 8 người trước Đài Phát Thanh Huế năm 1963 đến nay vẫn chưa xác định được kẻ thủ ác nhưng vụ biểu tình trước Đài Phát Thanh để đòi phát băng thuyết giảng của Thích Trí Quang dẫn đến xô xát và vụ nổ này thì đích thị là do Trí Quang chủ xướng. Từ sau 1975 đến nay có khi nào công chúng được nghe đài phát thanh phát lời thuyết giảng của chư tăng?

Những biến cố tiếp theo đó là những kịch bản tấn công chính quyền tăng dần phù hợp với chiến thuật ba mủi giáp công “chính trị, binh vận, và quân sự” của cộng sản ở Miền Nam mà đỉnh cao là việc phát động phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường trong cuộc biến động miền Trung do Trí Quang cầm trịch.

Nhìn lại một cách công bằng, trong thời TT Ngô Đình Diệm, có mức độ không công bằng nào đó giữa Phật Giáo và Công Giáo nhưng chưa có hành vi can thiệp vào hệ thống Phật Giáo để gọi là Bức Hại-Pháp Nạn. Những thuật ngữ này được tạo dựng và tuyên truyền thổi phồng lên như một phiên bản của khái niệm Mỹ Ngụy đang áp bức bóc lột nhân dân Miền Nam, phải đứng lên giải phóng. Chính Trí Quang đã kích động, gây ra xung đột và trở thành thủ lĩnh Phật Giáo Đấu Tranh, một quyền lực đối trọng với chính quyền.

Quyền lực và vị thế của Trí Quang vẫn còn nguyên vẹn ngay trước ngày 30-4. Chính trong hồi ký của mình Trí Quang tự hào việc có người vận động ông ủng hộ cho Dương Văn Minh làm Tổng Thống và ông đã đồng ý.

Chiếm trường, cô nhi viên, … giam sư: có phải là PHÁP NẠN?

Một thực tế kinh hoàng là sau 1975, Phật Giáo Việt Nam rơi vào cơn đại nạn. Trường Đại Học Vạn Hạnh (thuộc phe Ấn Quang của chính Trí Quang và Đại Học Phương Nam (thuộc phe Việt Nam Quốc Tự của Thượng tọa Thích Tâm Châu) và toàn bộ hệ thống các trường Phật học, trường Bồ Đề trên cả miền Nam bị đóng cửa, cơ sở vật chất bị tịch thu.

“Ngay sau tháng 4-1975 chính quyền tổ chức các chiến dịch đàn áp và khủng bố tinh thần. Tượng Phật nhiều nơi bị đập phá. Các cơ sở từ thiện Phật giáo, chẳng hạn Cô nhi viện Quách Thị Trang (Sài Gòn) và nhiều phòng phát thuốc miễn phí tại nhiều địa phương, bị tịch thu. Các nhà ấn loát thuộc quản lý Phật giáo bị đóng cửa. Viện Đại Học Vạn Hạnh bị dẹp. Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội bị ngưng hoạt động. Ủy ban Tái thiết và Phát triển Phật giáo bị giải tán, ngân quỹ bị tịch thu. Tu sĩ bị ép lên khu “kinh tế mới”. Thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn ký một quyết định yêu cầu nam tu sĩ (18-25 tuổi) phải đi “nghĩa vụ quân sự” (Quyết định số 310/TTG ngày 22-7-1976). Nhiều chùa được yêu cầu treo hình ông Hồ Chí Minh. Trong một số trường hợp, tu sĩ bị triệt luôn đường sống. “Thí dụ tại Long Thành một số tăng sĩ năm 1975 đã trồng tiêu và họ đã bán mùa tiêu trong năm đó được 2 triệu đồng. Chính phủ đánh thuế 1 triệu 9 trăm ngàn đồng. Một số các tu sĩ khác làm mía năm 1976. Họ bán vụ mía được 300.000 đồng, và bị đánh thuế là 300.000 đồng” – theo “Lời kêu gọi bảo vệ nhân quyền” của Viện Hóa đạo, ngày 9-6-1977 (Nguồn: “Phật Giáo Việt Nam, Biến Cố và Tư Liệu: Hai Mươi Năm Trong Chế Ðộ Cộng Sản, 1975-1995”, Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo, Hoa Kỳ, 1996)

Những vụ tự thiêu trước 1975 đươc Trí Quang phát động và báo chí loan truyền ầm ỉ nhưng sau 1975 những cuộc tự thiêu, thảm sát kinh hoàng lại chìm trong im lặng.

“ngày 2-11-1975 (ngày 29 tháng 9 Ất Mão), 12 vị tăng ni, với người đứng đầu là thầy trụ trì-Đại đức Thích Huệ Hiền, thuộc Thiền viện Dược Sư (ấp Tân Long A, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, Cần Thơ) đã thực hiện một cuộc tự thiêu tập thể! Trong Bản tuyên bố, 12 vị tăng ni nêu: “Chúng tôi sắp sửa thể hiện việc thiêu thân để bảo toàn chánh pháp, để bảo vệ danh nghĩa của giới Tăng sĩ tại địa phương cũng như toàn quốc… Hành động của chúng tôi ngày hôm nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho những người mê muội vô ý thức, những người với lòng lang dạ thú”…

Năm 1977, hàng loạt nhân vật nòng cốt của GHPGVNTN bị bắt: Hòa thượng Thích Huyền Quang – Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo; Hòa thượng Thích Quảng Độ – Tổng thư ký Viện Hóa Đạo; Hòa thượng Thích Thuyền Ấn – Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp; Thượng tọa Thích Thông Bửu – Quyền Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ; Thượng tọa Thích Thông Huệ – Chánh Đại diện GHPGVNTN Quận Gò Vấp kiêm Trưởng ban kinh tế tự túc Tăng Ni; và Thượng tọa Thích Thanh Thế, Trưởng ban thanh tra Ban kinh tế tự túc Tăng Ni.

Riêng Hòa thượng Thích Thiện Minh (cố vấn Hội đồng Viện Hóa Đạo) – một gương mặt rất “cứng đầu”, sau khi yêu cầu các chùa không được “chứa chấp” khiến ông lang thang hết nơi này đến nơi khác, ngày 13-4-1978, nhà cầm quyền bắt ông. Ban đầu ông bị giam ở số 4 Phan Đăng Lưu (Bình Thạnh) rồi sau đó được đưa qua Chí Hòa. Tại đây, ông bị tra tấn cho đến chết chỉ vài tháng sau. Thi thể ông được bí mật đưa đến trại cải tạo Hàm Tân {2}

Biến Đạo giải thoát thành công cụ của đảng: có phải là Pháp Nạn?

Sau những cuộc đàn áp bạo lực là chuổi thủ đoạn vận động, chia tác, cưởng ép, mua chuộc để ra đời một giáo hội Phật giáo Việt Nam quốc doanh năm 1981. Với giáo hội này, các chức sắc, giáo phẩm và hệ thống tổ chức đều đươc đảng xét duyệt chuẩn y. Trong đó, điều 7 của Hiến chương của giáo hội quốc doanh ghi nhận: "Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng Giáo pháp, Giáo luật Phật chế và Pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".{3}

Điều đó, tệ hơn dụ số 10 của Bảo Đại nhiều lần, Phật Giáo không còn là tổ chức độc lập mà chỉ là thành viên của Mặt trận, một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản. Con đường Trung Đạo theo triết lý của Phật Giáo hoàn toàn bị triệt tiêu từ tư tưởng đến tổ chức. Tiếp theo đó, các quy đinh của luật pháp ràng buộc tổ chức Phật Giáo về mặt nhà nước trực thuộc Ban Tôn Giáo chính phủ từ trung ương đến địa phương.

Theo hồi ký của Đỗ Trung Hiếu, nguyên là phật tử theo cộng sản và được phân công làm “kiến trúc sư” cho cuộc vận động này thì phương án đầu tiên do Trần Xuân Bách chủ xướng là sẽ áp dụng ở Miền Nam theo mô hình ở Miền Bắc trước 1975, tức là dẹp hết hệ thống chùa chiền cấp cơ sở chỉ để lại vài cán bộ làm sư cấp tỉnh và trung ương. Giữ đươc mô hình Phật Giáo Quốc doanh 1981 là do Đỗ Trung Hiếu thuyết phục được Trần Quốc Hoàn nguyên Bộ trưởng Nội Vụ bị thất sủng chuyển sang làm Trưởng Ban Dân Vận. Điều mà Trần Quốc Hoàn và Nguyễn Văn Linh tâm đắc để giữ lại hình hài Phật Giáo vì đây là công cụ, phương tiện nắm quần chúng tốt nhất.

Đạo giải thoát bị biên thành công cụ nắm người

Từ một giao lý, đạo pháp nhằm giải thoát con người qua sự tỉnh thức giác ngộ luật vô thường, vun đắp tâm từ bi, Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh biến mình thành nô lệ thành công cụ của chính quyền chuyên chế độc tài thì có còn PHÁP NẠN nào lớn hơn cần phải giải cứu, còn có sự suy đồi nào lớn hơn cần phải CHẤN HƯNG.

Tệ hại hơn nữa là gần đây hình thành một xu thế mới, sự câu kết giữa chính quyền, những cán bộ được phân công làm sư và các đại gia địa ốc, những phù thủy lưu manh, đã nở rộ lên phong trào xây chùa to, phật lớn diện tích hàng chục hàng trăm, hàng ngàn ha để kinh doanh tâm linh, áp vong, bán phước, cho thuê nơi đặt hài cốt, linh vị, …. Những ngôi chùa ấy đã bào mòn tài nguyên thiên nhiên môi trường, bòn rút ngân sách quốc gia lẫn tiền bạc của người mê tín để làm giàu cho những kẻ giả danh. Những cái tên Trúc Lâm, Bái Đính, Ba Vàng, Tam Chúc … sẽ lưu danh vào lịch sử như một tội ác của phật giáo quốc doanh.

Song song với bành trướng những công trình kinh doanh tâm lình chính quyền lại thằng tay giải tỏa, dùng xe ủi, xe xúc san bằng chùa Liên Trì ở Thủ Thiêm, chùa An Cư ở Đà Nẵng mặc cho cộng đồng tôn giáo trong ngoài nước lên tiếng kêu gọi, can ngăn. Hành vi phá sập cào bằng chùa chiền này chỉ có thể so sánh với tập đoàn tội ác PonPot khác chăng là PonPot đóng cửa tự làm trong phạm vi quốc gia còn cộng sản Việt Nam làm công khai trước dư luận quốc tế.

Phật Giáo bị bức tử: Trí Quang viết sách kể công xưa

Tiến sĩ Thái Kim Lan cho răng "Tôi nghĩ Hòa thượng Thích Trí Quang trong hoạt động về mặt xã hội cũng như văn hóa đối với xã hội, đối với lịch sử, đối với Phật tử chúng tôi, ngài Thích Trí Quang là vị đã cứu độ Phật giáo, cứu độ người Phật tử, ông luôn luôn bảo vệ đời sống của người Phật tử bằng sự dấn thân của ông.” {4} Theo đúng kiểu nói vo của quan chức cộng sản, bà Thái Kim Lan không chứng minh đươc Trí Quang đã cứu cho Phật Giáo cái gì, cứu ai mà thực tế, sự kích động của Trí Quang trước 1975 là tác nhân ít nhiều dẫn đến cái chết của 8 người trong đêm Phật Đản tang tóc ở Huế và cái chết của Thích Quảng Đức cùng nhiều nhà sư khác.

Sau 1975, trước một chuổi Pháp Nạn đau thương cho đồng đạo, môn đệ, phật tử và cả chúng sanh, bao nhiêu nhà sư đã bị bắt, bị giết trong các nhà tù, bao nhiêu phật tử đã bỏ mình trên đường vượt biển, tại sao Trí Quang không ra tay cứu độ hay ít nhất cũng một lần lên tiếng. Thượng Tọa Thiện Minh, hòa thượng Không Tánh không xa lạ với Trí Quang nhưng khi Thầy Thiện Minh bị bắt, bị giết Trí Quang vẫn điềm nhiên an trú trpng chùa Ấn Quang. Chùa Liên Trì, An Cư bị san bằng thì Trí Quang vẫn ung dung dich kinh sách ở chùa Từ Đàm vừa mới trùng tu trăm ngang ngàn dọc cột gổ quý bóng ngời,
Thái Kim Lan cho rằng Trí Quang đã “Theo Phật đến từng lời một, không đi sai, không đi ra ngoài, luôn luôn bảo vệ Chánh pháp, ngay cả sự im lặng của ngài cũng chính là một cách bảo vệ Chánh pháp!”{4} Thái Kim Lan nguy biện cho rằng Trí Quang sống khổ hạnh, không có chùa riêng, không có tăng đoàn riêng, …thô bỉ hơn còn đem so sánh Trí Quang với Ganhdi. Đó là sự báng bổ và dối trá. Sau 1975, Trí Quang sống ở chùa Ấn Quang, sau đó về chùa Từ Đàm những “thủ phủ” của Phật Giáo Quốc Doanh to rộng xênh xang không kém Đại Nội ngày xưa. Trụ trì các chùa ấy liệu quyền lực có lớn hơn Trí Quang không, tăng chúng trong chùa ấy dám mạo phạm trái ý Trí Quang không?

Trí Quang không im lặng.

Trí Quang không nói nhưng viết sách vá đươc Đảng cho in sách. Trong khi, không thiếu những phật tử, những người từng bị Trí Quang hay ai đó kích động lừa mị theo ảo tưởng đã tỉnh ngộ đã phản tỉnh, sám hối đã lên tiếng phản biện với chính quyền như Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm…. Trí Quang viết hồi ký và đươc chính quyền cộng sản cho in công khai. Hồi ký của Trí Quang một lần lữa kể công kích động phật tử và dư luận xã hội chống lại, làm suy yếu chế độ VNCH.

Trong chế độ cộng sản, việc in, xuất bản Hồi Ký của các nhân vật lịch sử được cân đo đong đếm tới từng hạt bụi. Trần Văn Giàu cựu Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ, giải thưởng Hồ Chí Minh, Nhà Giáo Nhân Dân… đủ loại danh hiệu đã chết từ nhiều năm qua nhưng Hồi Ký Một đoạn đời của ông chỉ mới đươc đăng ở trang web Viết-studies, Diễn đàn…. Hồ Ngọc Nhuận, Phò Chủ Tịch MTTQ TP.HCM về mặt chức vụ cao hơn Trí Quang nhiều nhưng bản thảo hồi ký Đời của ông ta chỉ lần quẩn từ bàn cán bộ biên tập đến giỏ rác mà có lẽ mã mãi không được in.

Ấy vậy mà Hồi Ký Trí Quang Tư Truyện đươc NXB TH TPHCM in phát hành từ năm 2011 và đươc các báo, website trong nước trích đăng, giới thiệu. Điều ấy chứng tỏ tính đảng trong hồi ký Trí Quang cao hơn tính đảng trong hồi ký Trần Văn Giàu hay nói cách khác, đảng tin Trí Quang hơn cựu Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ.

Quảng Độ dịch kinh trong tù, Trí Quang trong phòng lạnh,

Cũng tương tự, Trí Quang dịch 18 bản kinh Đại Thừa, năm bản trong Luật tạng và năm bản Luận tạng, cùng nhiều trong phòng máy lạnh là chính đạo nên đươc Nhà Xuất Bản Tôn giáo in và các trang web tha hồ trích dịch tự do như các văn kiện của Đảng. Ngược lại, thầy Quảng Độ dịch Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập) Phật Quang Đại Từ điển (9 tập) cực kỳ công phu và mãi giữ trong ngăn kéo. Dù là Từ Điển nhưng chăc là không bao giờ được in.

Chiến tranh và bất bạo động trong nhà giam là tà đạo ư? Việc ngoan ngoãn dịch kinh sách của Trí Quang cũng chính là tấm bình phong tốt, là điển hình tốt cho bộ máy tuyên truyền của Phật Giáo Quốc Doanh lừa mị phật tử, nhân sinh nói chung vói ý là Thầy Trí Quang vẫn ngồi đây. Đây là chính đạo.

Không phải là công an và không cần truy lý lịch Trí Quang thuôc phe nào nhưng có thể thấy từ thực tế, tất cả hành động, thái độ của Trí Quang từ trước và sau 1975 đều có lợi cho chính quyền cộng sản. Ngược lại, chính quyền Cộng Sản cũng đã dành cho Trí Quang không ít ưu quyền công khai mà ai cũng thấy.

Đây là sự thật không thể lầm lẫn về việc nhập thế, xuất thế của Trí Quang.

------------











No comments:

Post a Comment