Saturday, January 5, 2019

OISEAUX, GALILEI, MENDELEEV (Blog 5xu)





Oiseaux

Trần Lệ Xuân (1924-2011) sinh ra trong gia đình khá đặc biệt. Ông nội là tổng đốc Nam Định Trần Văn Thông, ông ngoại là thượng thư Bộ Binh Thân Trọng Huề. Cả hai ông trước khi làm quan to đều là Giám đốc Trường Hậu Bổ Hà Nội (trường đào tạo quan chức hành chính, dạy cả Hán văn lẫn Pháp văn, tốt nghiệp ra được bổ làm tri huyện). Bà nội Trần Lệ Xuân là em ruột Bùi Quang Chiêu. Bùi Quang Chiêu là người thành lập Đảng Lập Hiến và là người mở tờ báo La Tribune Indigène cùng Nguyễn Phú Khai. Nguyễn Phú Khai là bố của bà Thụy Nga (Bảy Vân), người vợ miền nam của ông Ba Duẩn. Sau CMT8, Bùi Quang Chiêu lúc này 70 tuổi bị giết cùng các con của mình.

Bố của Trần Lệ Xuân là ông là Trần Văn Chương. Ông này hơn Ngô Đình Nhu khoảng một giáp, và rất thích sự học giỏi giang của ông Nhu. Ông Chương được đi du học, có bằng luật sư, rồi trở về Sài Gòn hành nghề. Hai con gái của ông là Lệ Chi và Lệ Xuân giai đoạn này được gửi đi học ở Couvent des Oiseaux trên Đà Lạt. Đây là trường nữ sinh, dành cho quý tộc Đông Dương.

Trong ảnh là trường Les Oiseaux trước năm 1975!

Nam Phương Hoàng Hậu hồi còn là con gái thì đi học ở  Couvent des Oiseaux bên Pháp. Khi bà làm hoàng hậu, vua Bảo Đại hiến tặng một khu đất ở Đà Lạt (Hoàng triều cương thổ) để xây trường Couvent des Oiseaux Đà Lạt. Một thời gian sau, ông Chương chuyển ra Hà Nội, Trần Lệ Xuân ra theo. Lúc này Les Oiseaux đã có cơ sở Hà Nội, tên là Notre Dame du Rosaire ở đường Thành (digue Parreau), trên khu đất thuộc làng Vĩnh Phúc, nằm liền kề làng Liễu Giai và làng Đại Yên, nay là Hoàng Hoa Thám (Đại chủng viện Xuân Bích cũng ở gần khu đất này, nằm trên đất làng Liễu Giai, nay là khu Quần Ngựa). Trần Lệ Xuân đi học có lái xe riêng và cô sen theo hầu. Từ Couvent des Oiseaux cô chuyển qua học Albert Sarreau, lấy tú tài nhất năm 17 tuổi thì bỏ học lấy chồng.

Notre Dame du Rosaire

Năm 1946, cô Xuân lúc này 22 tuổi, vì nạn Việt Minh mà phải bỏ trốn vào Sài Gòn, rồi lên Đà Lạt.

Đến năm 1952, người vợ trẻ Trần Lệ Xuân sau nhiều năm nuôi ông chồng trí thức trùm mền ở Đà Lạt, bắt đầu rơi vào cảnh kiệt quệ tài chính. Cùng thời gian này, Ngô Đình Diệm bôn ba hải ngoại. Sự nghèo khó không hạ gục bà Xuân. Nhờ học Couvent Des Oiseaux, bà Nhu có quan hệ tốt với hoàng hậu Nam Phương, và cùng Ngô Đình Luyện là bạn của Bảo Đại, bà giúp đặt những bậc thang đầu tiên cho sự nghiệp chính trị của Ngô Đình Diệm, giúp ông Diệm trở thành thủ tướng của quốc trưởng Bảo Đại.

Regina Mundi Les Oiseaux

Cũng nhờ các cô bạn học hồi Les Oiseaux, nay giàu có và nhiều thế lực, bà Xuân tổ chức thành công sự kiện dình dang ngày 25 tháng 6 năm 1954 đón ông Diệm từ sân bay trở về dinh Gia Long. Năm này bà Nhu tròn 30 tuổi. Được coi là Đệ nhất phu nhân (de facto) bà Xuân là người kế thừa vai trò của hoàng hậu Nam Phương.

(Hai ảnh trên. Ảnh đen trắng là class 1968, bên tay phải ảnh là nhà nguyện. Ảnh màu là nhà nguyện, tôi chụp tháng Mười vừa rồi, trước khi nhà nguyện bị dỡ.)

Mỗi sáng cuối tuần ngồi trong nhà nguyện, nơi sân trường Oiseaux, tôi vẫn tự hỏi ông Nhu và bà Nhu đã có lúc nào đến nơi đây.

***

Galilei

Trong hình là bản vẽ mặt trăng của Galilei.

Galileo Galilei vẽ hình mặt trăng này năm 1610. Lúc này ông đã là cao thủ trong thiết kế và chế tác kính thiên văn, một thiết bị quang học tối tân thời đó. Cùng lúc này ở vùng đất giữa sông Mã và sông Hồng có những biến động lớn. Năm 1600, sau khi cùng họ Trịnh dẹp yên nhà Mạc và gầy dựng lại nhà Lê, Nguyễn Hoàng đi khai khẩn miền Nam. Năm 1613, con trai của Chúa Nguyễn Hoàng, là Nguyễn Phúc Nguyên được giao làm trấn thủ Quảng Nam. Đào Duy Từ vào Đàng Trong đầu quân cho Nguyễn Phúc Nguyên, Trịnh-Nguyễn phân tranh chính thức bắt đầu. Từ đất Quảng Nam với hoàng tử Nguyễn Phúc Nguyên làm đầu lĩnh, chữ quốc ngữ ra đời.

Galilei (1564-1642) là nhà vật lý, nhà thiên văn học và cả nhà toán học nữa. Nguyên lý tương đối mang tên ông (Galilean principle of relativity) là nền tảng của các định luật Newton. Và cũng là cơ sở để Einstein phát triển “Thuyết tương đối hẹp”. Einstein coi Galilei là cha đẻ của khoa học hiện đại.

Galilei chăm đi nhà thờ. Vừa dự lễ vừa làm thực nghiệm: khảo sát dao động của đèn chùm bằng nhịp đập huyết mạch của mình.

Câu nói bất hủ “Nhưng dù sao trái đất vẫn quay” là vì ông tin vào chân lý khoa học, nhưng đồng thời tuân phục ý thức hệ giáo hội.

Galilei còn nói đại ý : Khoa học là để hiểu lối đi của “thiên đường”, tôn giáo là để hiểu lối đến “thiên đường”.

“Thiên đường” mà nhà khoa học ngoan đạo Galilei nói, vừa là “Nước Chúa” mà Kitô hữu hướng đến vừa là “Vũ Trụ”, là “Mẹ Tự Nhiên” mà bất cứ ai cũng muốn trở về.

“Lối đến thiên đường” mà Galilei nói, vừa là lối sống theo Đạo đức (Ethics) Kitô giáo, vừa là quy cách ứng xử trong lối sống đời thường. Đó là “con đường” giúp mọi người sống tử tế, đúng đắn và hài hòa với nhau, với cộng đồng, với xã hội và với thế giới tự nhiên.

Ethics, là luân thường đạo lý giúp xã hội vận hành trơn tru, giúp các cá nhân sống hòa hợp với nhau và với thế giới tự nhiên xung quanh. Tác động của nó đến cộng đồng tích cực hơn thứ Đạo đức thiên về phẩm hạnh cá nhân (Morals) vốn là kim chỉ nam để mỗi người biết cách nhận ra tốt-xấu, đúng-sai, thiện-ác, chính-tà. Ethics hướng ngoại hơn, cộng đồng hơn. Morals hướng nội và cá nhân hơn. Ethics bảo vệ quyền con người còn morals hạn chế quyền ấy. Hành động theo lẽ phải, là dựa vào ethics. Sống lương thiện là dựa vào morals.

Morals ít thay đổi theo biến động xã hội, nó gắn với đức tin tôn giáo, với lý tưởng chính trị của mỗi cá nhân. Ngày trước thì “cả đời đục, mình ta trong”; ngày nay thì “cả khu rừng là củi, mình ta là que diêm”. Ethics thay đổi theo tiến bộ xã hội. Ngày trước trẻ con không được ăn thịt chó; ngày nay người lớn cũng không được ăn. Ngày trước chơi cần là nghiện ngập; ngày nay hút cỏ là tự do.

Nếu đề cao Ethics, thay vì Morals, chúng ta có thể có cuộc sống cá nhân thoải mái hơn mà không bị coi là vô đạo đức. Ta có thể mê rượu, hút cần và suốt ngày ong bướm các cô gái đẹp. Miễn là sống cuộc đời hữu ích, ứng xử đúng mực và hài hòa với con người và với thế giới tự nhiên.

Xã hội như Việt Nam, bị ảnh hưởng của Khổng giáo thường đề cao “đức trị” đem đạo đức cá nhân (morals) ra sử dụng như đạo đức xã hội (ethics). Áp đặt một cách thô lậu tiêu chuẩn cá nhân lên toàn bộ cộng đồng, triệt tiêu nhân quyền. Cái morality ấy lại còn gắn chặt với mẫu hình giữ gìn phẩm hạnh. Một thứ phẩm hạnh thừa giáo điều mà thiếu khoan dung, nặng cảm tính mà nhẹ lý tính, giữ cho mình thiện mà lại gây ác cho người. Một thứ phẩm hạnh khư khư giữ tấm thân sạch sẽ đứng ngoài lề, không chịu dấn thân vào dòng đời ô trọc, thành ra sống mà vô ích cho xã hội.

Mấy chục năm trước xã hội Việt Nam cũng đã từng áp đặt một thứ ethics giả hình như vậy. Đó là tiêu chuẩn đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên, đạo đức lối sống của người cộng sản. Nhưng ethics đó chỉ là lớp vỏ khô cứng bên ngoài cho một phiên bản thiếu sức sống thừa giáo điều của cái lõi morals ở bên trong. Nó đơn giản chỉ là việc lấy tiêu chuẩn phẩm hạnh cá nhân khắt khe và thô sơ để áp đặt lên tập thể đa dạng, thủ tiêu các quyền cơ bản của con người, bóp nghẹt xã hội dân sự. Ai không tuân thủ sẽ bị dẫm đạp tơi bời. Các tiêu chuẩn đạo đức lối sống ấy, vì tính vô thần và bất chấp tiến bộ xã hội của nó, không những không thể đa dạng hóa thành đạo đức nghề nghiệpmà còn góp phần làm tha hóa những người phải đeo cái ethics cằn cỗi ấy trên lưng, bất kể họ là ai, làm nghề nghiệp gì hay có địa vị gì trong xã hội.

Khi ta nói “xã hội đang băng hoại”, là ta đang nói đến sự thiếu vắng ethics kiểu Galilei. Khi lái xe đường dài gây tan nạn thương tâm, bao biện rằng mình dùng ma túy vì “cơm áo gạo tiền”, đó là che giấu việc cả mình lẫn chủ xe đều không có ethics. Khi chính quyền biện minh cho sai lầm trong hệ thống của mình là do “buông lỏng quản lý”, đó là lấp liếm che giấu việc không có ethics của cả người thực thi, người lãnh đạo và toàn bộ bộ máy. Không cách nào quản lý được những cán bộ không có đạo đức nghề nghiệp. Bộ máy nhà nước tốt là bộ máy chỉ cần quản lý rất ít mà nó vẫn vận hành hiệu quả.

Nếu đề cao thứ ethics phổ quát kiểu châu Âu, và bớt đánh giá con người theo tiêu chuẩn morals châu Á, thì mỗi người trong xã hội sẽ nhập tâm và biết cách hành sử sao cho phù hợp với ethics của cộng đồng mà mình gắn bó. Đó chính là ethics của công chức, ethics của bác sĩ, ethics của luật sư, ethics của giáo viên, ethics của cảnh sát giao thông, ethics của lái xe, … Những ethics đấy là nền tảng tạo nên đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp, hai thứ đạo đức mà Việt Nam đang không có.

***

Bảng tuần hoàn kiêu hãnh của Mendeleev

Trong những năm tháng khó khăn của đất nước, rất ít học sinh có được một cuốn từ điển. Vậy nên nhiều thế hệ học sinh chỉ biết việc tra cứu nhờ vào việc sử dụng Bảng Logarithm và Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học.

Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học manh nha hình thành cách nay khoảng 200 năm. Nó có nhiều phiên bản khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là Bảng tuần hoàn Mendeleev. Bảng tuần hoàn này ra đời năm 1869, cách nay đúng 150 năm.

Các học sinh phổ thông, kể cả những em không ưa thích môn hóa, ai cũng học được một điều gì đó từ Bảng tuần hoàn Mendeleev. Ví dụ từ bảng tuần hoàn, các em có thể hình dung được cách người ta phân loại và hệ thống hóa cả trăm nguyên tố hóa học, với các tính chất hóa học phức tạp và khô khan.

Các nguyên tố được phân vào các ô. Các ô được xắp xếp theo hàng và cột. Mỗi ô có màu và đường viền khác nhau. Cột, hàng, màu và đường viền là các “code” để các em chỉn nhìn vào và biết ngay được nguyên tố hóa học trong ô thuộc phân nhóm nào và bởi vậy có tính chất gì.

Trong mỗi ô có ghi tên của nguyên tố và số nguyên tử. Màu sắc của số nguyên tử thể hiện trạng thái tồn tại của chất này ở điều kiện nhiệt độ 0oC và áp suất 1 atmosphere (áp suất khí quyển). Màu đen là thể rắn, màu lục là thể lỏng, màu đỏ là thể khí.

Nếu ô có đường viền liền, thì đây là nguyên tố nguyên thủy, có từ trước khi trái đất hình thành. Nếu đường viền là các chấm, thì đây là nguyên tố hình thành nhờ tổng hợp. Còn không có viền, là các nguyên tố sinh ra từ phân rã.

Đúng như tên gọi, bảng thể hiện tính tuần hoàn của các nguyên tố. Các em học sinh có thể lĩnh hội được một tính chất nền tảng rất quan trọng của tự nhiên, đó là tính tuần hoàn. Dựa vào tính tuần hoàn, người ta có thể tiên đoán được những gì mà ở hiện tại chưa biết.

Bảng tuần hoàn chia theo hàng và cột. Các hàng thể hiện tính tuần hoàn theo chu kỳ. Hết một hàng là một chu kỳ. Các cột thể hiện các nhóm nguyên tố có cùng tính chất hóa học. Dựa vào đây, người ta có thể tiên đoán sự tồn tại và tính chất hóa học của một nguyên tố, dựa vào tính chất của các nguyên tố xung quanh nó trên bảng tuần hoàn.

Trước nhà hóa học người Nga Dmitri Mendeleev (1834-1907), đã có nhiều nhà khoa học phát triển các bảng tuần hoàn khác nhau.Ví dụ bảng tuần hoàn của nhà hóa học Pháp Antoine Lavoisier năm 1787. Thế nhưng Mendeleev mới là người được ghi công bởi sự sắp xếp của ông có độ tiên đoán chính xác cao. Ông để trống những ô mà có vẻ như là chỗ của những nguyên tố còn chưa được con người khám phá. Ông tiên đoán được tính chất của các nguyên tố còn khuyết này và tin rằng chúng tồn tại trong tự nhiên. Dần dà các nhà khoa học tìm ra những nguyên tố còn khuyết ấy, và những ô trống được lấp đầy.

Một ví dụ về “lấp đầy ô trống”, đó là năm 1894, Tôn ông (Lord) Reyleigh phát hiện ra nguyên tố Argon. Argon nằm ở hàng thứ ba và cột thứ mười tám (tức là cột ngoài cùng bên phải). Mỗi cột là một nhóm (còn gọi là họ) các nguyên tố. Các nguyên tố cùng họ (cùng nhóm) có các tính chất hóa học giống nhau. Họ của Argon ngày xưa được gọi là khí trơ trong tiếng Việt do các khí này cứ trơ ra không chịu tương tác với các nguyên tố khác. Trong tiếng Anh chúng có tên gọi là noble gas, ý nói các chất này quý phái (noble), kiêu kỳ đứng riêng ra, không thèm chơi với các nguyên tố khác.

Bảng tuần hoàn Mendeleev mở màn cho hóa học hiện đại. Nó không chỉ mang cảm hứng đến cho các nhà hóa học, mà cho cả các nhà vật lý nguyên tử.

Nhà vật lý Niels Bohr, cha đẻ của vật lý lượng tử cổ điển, đã sử dụng thuyết lượng tử để giải thích tại sao các nguyên tố hóa học lại nằm ở các vị trí như vậy trên bảng tuần hoàn. Năm 1913 ông đưa ra mô hình nguyên tử trong đó có hạt nhân nằm ở tâm, xung quanh được bao bọc bởi các lớp vỏ electron. Bohr giải thích rằng các nguyên tố cùng họ có cấu trúc lớp vỏ electron ngoài cùng giống nhau. Tính chất hóa học của các nguyên tố phụ thuộc chủ yếu vào lớp vỏ ngoài cùng này. Với khí trơ, Bohr giải thích, lớp vỏ ngoài cùng rất bền, nên khí trơ khó kết hợp với các chất khác. Nguyên tố nào có lớp vỏ càng kém bền vững, nó càng dễ kết hợp với nguyên tố khác để tạo ra hợp chất có vỏ bền vững hơn.

Khoảng một thập niên tiếp theo, vật lý lượng tử cổ điển phát triển thành vật lý lượng tử hiện đại. Các nhà vật lý lượng tử hiện đại đóng góp thêm vào mô hình nguyên tử.

Năm 1924, Wolfgang Pauli tìm cách giải thích tại sao mỗi hàng (mỗi chu kỳ) của bảng tuần hoàn lại có độ dài như vậy. Từ đây ông tìm ra Nguyên lý ngoại trừ (Pauli Exclusion Principle). Nguyên lý này phát biểu rằng không thể có hai electron cùng tồn tại ở cùng một trạng thái lượng tử.

Các đóng góp của hai bộ óc lớn của cơ học lượng tử là Werner Heisenberg và Erwin Schrödinger đã làm thay đổi mạnh mẽ mô hình nguyên tử Bohr. Trong mô hình mới, được gọi là mô hình sóng (wave model), các electron không còn chuyển động quanh hạt nhân giống như trái đất bay quanh mặt trời nữa. Trong mô hình sóng, các lớp electron được mô tả như một đám mây bao quanh quỹ đạo nguyên tử (atomic orbital, viết tắt là AO), và vị trí của electron không còn được biểu diễn như hàm của một hạt điểm nữa mà như một hàm phân phối xác suất. Mỗi orbital nguyên tử được xác định bởi ba giá trị của ba số lượng tử (quantum number). Số lượng tử này được xác định bởi Nguyên lý ngoại trừ Pauli.

Mô hình sóng để mô tả nguyên tử vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Nó cũng là mô hình giúp hình thành ngành hóa lượng tử (quantum chemistry). Hai vợ chồng bà Thủ tướng Đức Angela Merkel là các nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực này.

Khoa học hiện đại có nhiều chuyển biến lớn trong suốt 150 năm qua. Trong đó có thể kể đến hai cuộc cách mạng là Thuyết tương đối của Einstein và Vật lý lượng tử. Thế nhưng Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học về cơ bản không có nhiều thay đổi. Được trình bày đơn giản và dễ hiểu chỉ trên một mặt giấy, Bảng tuần hoàn Mendeleev bền bỉ và khiêm tốn đi qua tất cả các biến động thời gian. Sự hiện diện thầm lặng của bảng tuần hoàn trong cặp học sinh, hay trên tường phòng thí nghiệm chính là niềm kiêu hãnh không phô trương của tinh thần khoa học.

Cùng giai đoạn 1869 khi Mendeleev chế ra bảng tuần hoàn thì ở nước ta đang có các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Đàng Trong (sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ từ cuộc chiến 1858). Năm 1868 là năm Nguyễn Trung Trực có chiến thắng lớn ở Kiên Giang. Cũng năm này ông bị Pháp bắt và đưa trở về Sài Gòn xử án rồi đưa ngược lại Rạch Giá để hành quyết.







No comments:

Post a Comment