Sunday, September 30, 2018

THÔNG TƯ 19 & NHỮNG CÂU HỎI PHẢI ĐƯỢC TRẢ LỜI (Nguyễn Gia Kiểng)




30/09/18

Xã luận

Thông tư 19 và những câu hỏi phải được trả lời

Cùng với Thông tư 19 và sự phát giác của Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN đã đến lúc Đảng cộng sản phải trả lời một loạt câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và ngày càng gây lo âu và phẫn nộ trong nhân dân Việt Nam.

Trên thực tế đồng nhân dân tệ đã được người Việt ở các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc sử dụng từ lâu - Ảnh minh họa (BBC tiếng Việt)

Thông tư 19 (số 19/2018/TT-NHNN) đã gây một xúc động lớn trong dư luận rồi sau một hai tuần không còn được nhắc lại nữa. Người ta xúc động mạnh vì thấy chủ quyền quốc gia bị xâm phạm nhưng không biết nói gì vì thông tư này dài, nhập nhằng, khó hiểu, nhiều chi tiết và quy chiếu tới nhiều văn bản khác. Tuy vậy không nên để bị lạc lõng trong các chi tiết và để cho cây che khuất rừng.

Điều chắc chắn là Thông tư 19, có hiệu lực từ ngày 12/10/2018, chính thức nhìn nhận, đúng ra là tái xác nhận, đồng Nhân dân tệ (CNY) như là đồng tiền chính thức trong bảy tỉnh biên giới Việt Trung (theo các điều 3 và 8). Các điều khoản khác trong Thông tư chủ yếu có mục đích giới hạn hậu quả của việc cho lưu hành đồng CNY. Thí dụ như quy định rằng việc xuất và nhập đồng CNY của các thương nhân phải có chứng từ ; một hợp đồng thanh toán bằng CNY chỉ được sử dụng một tài khoản ngay cả nếu thương nhân có nhiều tài khoản CNY tại nhiều chi nhánh ngân hàng biên giới ; các ngân hàng phải báo cáo mỗi quý khối lượng CNY xuất và nhập ; cư dân Việt Nam tại biên giới không được nộp tiền mặt CNY vào tài khoản v.v. Tuy nhiên tất cả đều mơ hồ và lúng túng, thí dụ như quy chế "cư dân có hoạt động thương mại biên giới". Có khác gì một thương nhân ?

Quan trọng nhất trong Thông tư này là câu :

"Quyết định số 689/2004/QĐ-NHNN ngày 07/6/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ tại khu vực biên giới và khu kinh tế cửa khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc hết hiệu lực thi hành".

Vậy Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN ngày 07/6/2004 là gì ?

Một cách vắn tắt, đó là quyết định cho phép đồng Nhân dân tệ (CNY) được lưu hành tự do, tương đương với đồng tiền Việt Nam tại các tỉnh biên giới và vì, một mặt, mọi ngân hàng đều có thể mở chi nhánh tại các tỉnh biên giới và, mặt khác, không có gì trong quyết định này phân biệt một chi nhánh biên giới với các chi nhánh khác nên đồng CNY trên thực tế cũng là một phương tiện thanh toán như đồng tiền Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Quyết định này do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành theo chỉ thị của thủ tướng.

Thủ tướng lúc đó là ông Phan Văn Khải nhưng người ta phải hiểu đây là một quyết định của ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông Dũng lúc đó là phó thủ tướng thường trực nhưng có quyền hành áp đảo hơn hẳn ông Khải. Ông là con đỡ đầu của ông Lê Đức Anh -nhân vật có mọi quyền lực vào lúc đó- và được công khai chuẩn bị để làm lãnh tụ của chế độ trong khi ông Khải gần như chỉ là một gia nhân của Lê Đức Anh. Hơn nữa ngoài chức vụ phó thủ tướng thường trực, ông Dũng còn là chủ tịch Hội đồng Tài chính và Tiền tệ. Ông cũng đã là thống đốc Ngân hàng Nhà nước trước khi giao chức vụ này cho ông Lê Đức Thúy. Ngoài ra Nguyễn Tấn Dũng còn giữ một chức vụ đặc biệt quan trọng khác là Thường vụ Bộ chính trị Đảng cộng sản.

Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ 5/1998 đến 12/1999 (Báo Mới, 11/04/2016)

Quyết định 689/2004 này rất nghiêm trọng. Tuy ngoài mặt và trên nguyên tắc nó chỉ áp dụng cho các tỉnh biên giới phía Bắc (còn có hai quyết định khác cho các vùng biên giới với Lào và Campuchia) nhưng vì không có quy định ngân hàng nào được có chi nhánh biên giới và cũng không có phân biệt một tài khoản biên giới với một tài khoản bình thường nên có thể nói tóm tắt là trên thực tế bất cứ ai, doanh nghiệp cũng như cá nhân, đều có thể có tài khoản CNY và tài khoản này có thể được sử dụng trên toàn lãnh thổ. Hơn nữa quyết định này còn cho phép mọi ngân hàng và doanh nghiệp đều được mở những "bàn đại lý" để trao đổi tiền Việt Nam và tiền Trung Quốc, các ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc còn được quyền tự do thỏa thuận hối suất trao đổi. Nếu dụng tâm của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, hay ít nhất của các ông Lê Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng và Nông Đức Mạnh, không phải là chuyển giao dần dần chủ quyền Việt Nam cho Bắc Kinh thì quyết định này hoàn toàn không thể hiểu được.

Và tại sao đây lại là một "quyết định" thay vì một đạo luật do quốc hội biểu quyết ? Tiền là một vấn đề chủ quyền đặc biệt quan trọng. Vô tình hay cố ý quyết định 689/2004 là một hành động vừa lạm quyền vừa phản quốc.

Đàng sau đồng tiền nào cũng là một uy quyền. Khi một người đổi một tài sản của mình –một con gà, một chiếc xe hay một căn nhà- lấy một tờ giấy, dù tiền mặt hay chi phiếu, thì phải hiểu là người đó tin rằng đàng sau tờ giấy đó có một uy quyền bảo đảm sẵn sàng trao lại một tài sản tương đương bất cứ lức nào. Tiền là chủ quyền. Nhìn nhận cho tiền Trung Quốc tự do lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam tương đương với nhìn nhận quyền lực của Bắc Kinh trên đất nước Việt Nam, cụ thể là chấp nhận hậu quả của những quyết định kinh tế tài chính của Bắc Kinh.

Không thể ngụy biện rằng việc cho lưu hành một đồng tiền nước ngoài đã có tại một số nước. Chỉ có một vài nước hoặc quá nhỏ để vấn đề chủ quyền không đặt ra hoặc đã quá suy sụp về mặt kinh tế khiến đồng tiền quốc gia mất hết giá trị mới phải chấp nhận một đồng tiền nước ngoài làm phương tiện thanh toán.

Quyết định 689/2004 đồng thời cũng là một hành động gian trá dấm dúi, gần như lén lút, vì ngay cả nhiều chuyên gia kinh tế và tài chính làm việc trong bộ máy nhà nước cũng không biết tới. Dĩ nhiên các ngân hàng đều nhận được để thi hành và quyết định này có lẽ cũng được đăng trên Công Báo nhưng nó đã bị chìm khuất trong vô số công bố khác. Mọi người đều có thể biết nhưng thực tế là hầu như không ai biết. Một số biết được thì im lặng thay vì báo động dư luận. Do thiếu tinh thần trách nhiệm hay thiếu hiểu biết hay cả hai ? Kết quả là một hành động gây tác hại nghiêm trọng cho chủ quyền và quyền lợi quốc gia đã bị giấu nhẹm.

Một câu hỏi mà bây giờ nhiều người có thể đặt ra là tại sao dù được ban hành từ năm 2004, Quyết định 689/2004 đã không khiến đồng CNY tràn ngập Việt Nam và gây sự phẫn nộ đáng lẽ phải có ? Đó là vì một lý do thuần túy kỹ thuật. Cho đến gần đây đồng CNY được coi là một đồng tiền rất mạnh, tỷ giá hối đoái so với các đồng tiền khác, kể cả đồng tiền Việt Nam, chỉ có thể lên chứ không thể xuống, Mỹ và Châu Âu có lúc còn gây áp lực để Trung Quốc tăng giá đồng CNY. Vì thế nên đồng CNY đã không được dùng làm đồng tiền thanh toán mà là đồng tiền để cất giữ. Tiền xấu đuổi tiền tốt và đồng CNY là một đồng tiền tốt.

Nhưng ngày nay tình hình đã thay đổi, kinh tế Trung Quốc dù trên mặt thống kê chính thức vẫn còn tăng trưởng ở tỷ lệ hoang đường gần 7% mỗi năm nhưng trên thực tế đã suy thoái từ nhiều năm nay. Bắc Kinh ngày càng khó che đậy sự suy thoái ngày càng lộ liễu này bằng những chi tiêu công cộng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Thế giới đã dần dần nhận ra là Trung Quốc sắp khủng hoảng. Trong một năm qua các chỉ số chứng khoán Trung Quốc đã xuống giá gần 20% và đồng CNY cũng đã sụt giá gần 10% so với đồng đô la Mỹ trong khi đồng tiền Việt Nam chỉ sụt giá khoảng 5%. Hậu quả là đồng CNY trở thành một đồng tiền xấu so với đồng tiền Việt Nam. Đồng CNY vì vậy đang trở thành đồng tiền để tiêu xài thay vì để cất giữ và nó đe dọa tràn ngập thị trường Việt Nam. Trên thực tế người ta có thể thấy từ mấy năm qua du khách Trung Quốc sang Việt Nam chủ yếu mua sắm trong các cửa hàng Trung Quốc để thanh toán bằng đồng CNY. Tình trạng mới này chắc chắn đã là lý do ra đời của Thông tư 19 : thay thế để giảm bớt hậu quả độc hại của Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN.

Chưa đủ. Chúng ta cần một quy định rõ ràng và dứt khoát rằng đồng CNY cũng chỉ là một ngoại tệ như mọi ngoại tệ khác và đồng tiền duy nhất được dùng làm phương tiện thanh toán là đồng tiền Việt Nam, trừ những hợp đồng hợp tác quốc tế trong đó các đối tác đã thỏa thuận trước về một đồng tiền thanh toán. Quản lý tiền tệ là một vấn đề phức tạp, các nước phát triển đã có kinh nghiệm và đã cùng rút ra những kết luận căn bản. Việt Nam cần học hỏi và áp dụng những kết luận của họ thay vì đòi phát minh lại môn tài chính quốc tế, nhất là với trình độ hiểu biết rất sơ sài và sự vô trách nhiệm của các quan chức tài chính.

Phải rất cảnh giác. Bãi bỏ thẳng thắn và toàn bộ mọi quan hệ đặc biệt với đồng CNY không chỉ cần thiết mà còn khẩn cấp. Nền kinh tế Trung Quốc và đồng CNY có thể khủng hoảng bất cứ lúc nào. Trung Quốc khó còn che đậy lâu hơn nữa tình trạng suy thoái và một căn bệnh bị cố tình che giấu có thể sẽ rất dữ dội khi không còn che giấu được nữa. Việt Nam có thể bị lôi kéo vào một khủng hoảng lớn cùng với Trung Quốc. Càng nguy hiểm hơn vì về mặt kinh tế "biên giới Việt - Trung" không chỉ là các tỉnh phía Bắc. Lào và Campuchia trên thực tế đã gần như là những vùng kinh tế của Trung Quốc. Đây cũng là một thành tích đáng ghi nhận của Đảng cộng sản Việt Nam và khiến chúng ta bị Trung Quốc bao vây.

Cùng với Thông tư 19 và sự phát giác muộn màng của Quyết định 689/2004/QĐ-NHNN đã đến lúc Đảng cộng sản phải trả lời một loạt câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và ngày càng gây lo âu và phẫn nộ trong nhân dân Việt Nam.

- Việt Nam nợ Trung Quốc bao nhiêu và trong những điều kiện nào ?

- Các khu rừng đầu nguồn cho Trung Quốc thuê dài hạn có quy chế nào ?

- Dự án Bôxit Tây Nguyên sẽ bị đình chỉ hay không ?

- Vũng Áng là một đặc khu kinh tế hay là một nhượng địa ?

- Có hay không có một mật ước Thành Đô?

Cho tới nay Đảng cộng sản vẫn cố tình làm ngơ nhưng càng ngoan cố không chịu trả lời họ càng mặc nhiên nhìn nhận giả thuyết bất lợi nhất cho đất nước và cho chính họ.

Nguyễn Gia Kiểng
(30/09/2018)








No comments:

Post a Comment