Sunday, July 1, 2018

MỘT XÃ HỘI BỊ TÀU NẠN HÓA (GS Lê Hữu Khóa)




GS Lê Hữu Khóa
30/06/2018

Không nhìn thấy Tàu nạn hóa là có lỗi và sẽ có tội với tổ tiên Việt.
Không tìm hiểu Tàu họa hóa có lỗi và sẽ có tội với Việt tộc.
Không nhìn thấu Tàu hoại hóa có lỗi và sẽ có tội
với chính nhân cách công dân Việt của mình.

Tàu nạn là ngữ văn nói lên nội hàm để nhận định rõ về hằng trăm mối đe dọa tới từ lãnh đạo Bắc Kinh qua các ý đồ xâm lấn, xâm lăng, xâm lược, luôn được nuôi dưỡng bởi thâm ý đồng hóa Việt tộc của chúng.

Tàu nạn hóa là ngữ pháp được dùng như động từ qua các hành động vừa ác, vừa độc, vừa hiểm của tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh đang thao túng trên toàn bộ xã hội Việt, đất nước Việt, dân tộc Việt. Ngữ văn và ngữ pháp này vạch mặt chỉ tên bọn lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, nhưng luôn giữ sự tôn trọng với nhân dân Trung Quốc, với đất nước Trung Quốc, với văn hóa Trung Quốc.

Các ngữ vựng: Tàu tặc, Tàu nạn, Tàu họa, Tàu hoại, dùng để làm sáng tỏ xã hội học thực tiễn tới từ xã hội học thực tế, trong đó ta nhận ra trong phân tích cũng như trong giải thích, trong diễn luận cũng như trong lập luận một quá trình – mà cũng là một quy trình – đi từ lao nô hóa nhân lực Việt tới nô lệ hóanhân dân Việt, cùng khởi xướng với các chiến lược, chiến dịch trộm, cắp, cướp, giật đất, biển, đảo của Việt Nam:

·         Nơi nào là lãnh thổ của Việt tộc mà bị Tàu chiếm, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào là nhân công Việt bị Tàu bóc lột, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào là môi trường Việt bị Tàu làm ô nhiễm, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào là tài nguyên Việt bị Tàu làm moi móc, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào có lãnh đạo Việt bị Tàu mua chuộc, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào có nội gián Việt làm tay sai cho Tàu, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào có cơ quan quảng bá văn hóa Tàu, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào có truyền thông phục vụ cho tuyên truyền Tàu, chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào có các tổ chức mua bán bất động sản phục vụ Tàu chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.
·         Nơi nào có các tổ chức mua bán nội tạng phục vụ Tàu chỗ đó đang bị Tàu nạn hóa.

Phương pháp luận thống hợp về hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế)

Phương pháp thống hợp dựa trên ba chuyên ngành chủ đạo về các chủ thuyết liên quan trực tiếp tới hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế), tại đây tôi xây dựng các phân tích dựa trên ba tác giả là ba tư tưởng gia có công trình cá nhân trong không gian học thuật này:

·         Chính trị học qua chủ thuyết khống chế toàn trị của M.Gauchet,
·         Triết chính trị về kiềm chế qua độc quyền của M.Foucault,
·         Xã hội học về ức chế bằng áp lực của P.Bourdieu.

Là môn sinh của ba nhà tư tưởng trên, tôi không những sử dụng các tác phẩm, các công trình cá nhân, các công bố khoa học qua báo cáo chính thức của họ, mà tôi sử dụng cả các bài phỏng vấn, các phát biểu tại các hội nghị, hội luận, hội thảo… Tôi tận dụng cả các cuộc đàm thoại của họ với đối tác, các cuộc đối thoại của họ với các đối thủ không đồng ý với họ, chính tại đây ta sẽ thấy các luận thuyết của họ được họ mài dũa sắc bén khi có được điều kiện va chạm với các phản biện không cùng trường phái với họ. Tôi cũng không quên khai thác -sâu và rộng- các câu trả lời của họ trước các môn sinh của họ.

Tàu tặc: quá trình khống chế bằng bạo lực ngầm

Trong quá trính này, Tàu tặc không những xâm lược qua hệ thống chính quyền nhất là qua ĐCSVN đã nhận và chịu sự điều khiển và chi phối của họ từ khi thành lập đảng là năm 1930, liên tục khuất phục Tàu cho tới mật nghị Thành Đô với Tàu tặcđã chọn con đường cứu đảng, đã bỏ con đường cứu dân, cứu nước, một chỉ bảo rất rõ, nó càng ngày càng rõ khi ĐCSVN không công khai hóa mật nghị này. Trừ giai đoạn của “chặt cầu để trực diện chống Tàu”, sau khi có Liên Xô bao che của Lê Duẩn từ 1977-1979, càng ngày ta càng thấy chưa bao giờ ĐCSVN lệ thuộc vào hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế) như ngày hôm nay dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Phú Trọng.

Khống chế bằng bạo lực ngầm luôn lan trải trên nhiều lãnh vực của một đất nước như Việt Nam trực tiếp hàng ngày nhận lãnh tất cả các hành động bạo lực của Tàu tặc, từ các phương án để Tàu tặc vào khai thác tài nguyên đến cạn kiệt cho đến phương án bóc lột lao động Việt ngay trên đất nước Việt. Với các hệ lụy từ ô nhiễm môi trường tới các hành vi tổ chức buôn nội tạng người Việt… với chiến thuật hối lộ mọi cơ chế, từ hàng dọc trong lãnh đạo qua các công trình phải để Tàu tặc làm chủ thầu, tới cách sử dụng người Việt đứng tên để mua đất cho Tàu tặc.

Việt Nam không phải là trường hợp độc nhất của châu Á, hiện nay Camphuchia, Lào, Miến Điện và gần đây là Sri Lanka đã bán đất và hải cảng để trả nợ cho Tàu tặc. Xa hơn nữa là châu Phi đang vô cùng khốn đốn, vì chưa có kinh nghiệm lịch sử như Việt Nam về quá trình khống chế bằng bạo lực ngầm. Hiện nay, đã có một số quốc gia châu Phi đã bị quá trình này bắt buộc phải bỏ, loại, trừ, hủy mọi hợp tác với Đài Loan, qua sức ép của Tàu tặc. Và, bản thân Âu châu cũng không thoát được quá trình này, người Tàu không những mua bất động sản, mà cả các ruộng nho, các lâu đài là những nơi tiêu biểu không những cho du lịch mà cho văn hóa, cho nghệ thuật biết sống của người Âu châu.

Chính tại Âu châu, các chuyên gia đang xem lại toàn bộ các quá trình tìm lợi tức qua du lịch, trong đó du lịch Tàu đã đang gây những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế, mà hiện nay Âu châu cũng không biết là họ đang lời hay đang lỗ. Nhưng họ đã rút ra được một kết luận là mỗi lần hợp tác với Tàu thì sẽ chỉ thấy lợi cho Tàu, mà không biết thua thiệt về mình sẽ ra sao? Thí dụ điển hình người Tàu tổ chức các mạng lưới lậu vé tại các bảo tàng viện của Pháp từ nhiều năm nay, mà bây giờ các lãnh đạo các bảo tàng viện mới biết, trong đó bảo tàng Louvre bị thiệt hại nặng nhất; cùng lúc các mạng xã hội du lịch Tàu bó buộc các thương gia của Âu châu phải sử dụng mạng quảng cáo du lịch của Tàu mới có khách Tàu, đây cũng là những kinh nghiệm mà dân chúng các nước Âu châu mới khám phá ra với các kinh nghiệm ban đầu trong cách gian lận kiểu Tàu, mà người Việt đã biết từ lâu.

Việt Nam là quốc gia có nhiều kinh nghiệm về quá trình khống chế bằng bạo lực ngầm nhưng chúng ta chưa có một công trình khoa học nào để mô hình hóa quy trình này, chính các công trình học thuật để mô hình hóa các ý đồ của kẻ đã xâm lấn ta và đang có ý đồ xâm lược ta; giúp ta sẽ thấy rõ “đường đi nước bước” của kẻ xâm lăng. Tôi xin đề nghị các chỉ báo thực nghiệm sau đây, luôn đi cùng với các mô thức trong con tính của kẻ có ý định, ý muốn, ý đồ xâm lược ta, và luôn đặt các phân tích sau đây vừa trong bối cảnh lịch sử giữa Ta và Tàu tặc, vừa trong hiện trạng đất nước, xã hội, dân tộc Việt:

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm bằng cách đánh lên tư duy nạn nhân phải quy phục nó, vì sợ sức mạnh của nó hoặc sợ có tai họa tới từ chuyện xung đột với nó. Chính nó giật dây và thao túng các lãnh đạo của quốc gia bị nó kiềm kẹp phải giấu dân chúng của mình về các điều kiện khi chấp nhận sự khống chế của nó, trong đó kẻ khống chế và lãnh đạo của quần chúng bị khống chế đồng lõa cùng nhau là không cho chuyện chấp nhận khống chế nổi lên mặt quan hệ của hai bên trước quần chúng qua truyền thông. Chính đây là thảm họa cuả mật nghị Thành Đô với các lãnh đạo ĐCSVN làm hệ lụy cho bi kịch của đường lối quy thuận Tàu tặc hiện nay của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn cần Tàu để tồn tại, mặc dầu biết rõ hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng) của Tàu tặc.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm không cần có tên gọi thật về bản chất của sự khống chế, mà ngược lại dùng chiêu bài mỵ dân qua đạo đức giả để đạt được hiệu quả cao, bằng cách đặt tên ngược lại với sự thật (láng giềng tốt, đồng chí tốt…). Đây là bị kịch của Việt tộc từ gần một thế kỷ nay khi chấp nhận thụ động sự cai trị của ĐCSVN, một đảng không hề được dân tộc bầu ra. Chính ĐCSVN dùng tuyên truyền để phản sự thật, mà không cho xã hội phản biện, lấy sự phản chân lý để cai trị nhân dân, và nhồi não dân chúng phải sống với cái phản sự thật, chính cái phản chân lý để làm mất đi lẽ phải trong cuộc sống.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm, cụ thể là dùng cảnh cáo để đe dọa, dùng đe dọa để chuẩn bị trừng phạt, và quá trình trừng phạt thường là trừng phạt ngầm trong bí mật nội bộ giữa các lãnh đạo, mà hiện nay là trấn áp và hãm hại các lãnh đạo chống Tàu tặc, từ vô hiệu hóa tới cô lập hóamà không ngần ngại dùng tà thuật của kẻ sát nhân là khủng bố, thủ tiêu, ám sát. Cùng lúc, nó khổ sai hóa các kẻ tuân phục nó trong quan hệ giữa quyền lực, nghe nó thì sống và có tiền, có quyền, còn không nghe lời nó là mất tất cả, kể cả mạng sống. Đây là thảm kịch của ĐCSVN, giữa các mafia đang thanh trừng lẫn nhau, trong đó các vây cánh sống còn, luôn tranh đua nhau trong cạnh tranh là “phải lấy lòng Tàu”, để nó bao che và bảo kê cho mình, đó cũng là hiện thực nhục nhã của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang “cạnh tranh lấy lòng Tàu” với bè nhóm của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, mặc dù cả hai bên đều tuyên bố rất mỵ dân trước quần chúng là luôn bảo vệ chủ quyền của đất nước.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động trực tiếp hoặc gián tiếp bắt nạn nhân của nó là các kẻ lãnh đạo của dân tộc nạn nhân là phải kềm chế môi trường xã hội, các cuộc đấu tranh trong dân chúng, cùng lúc ngăn chặn truyền thông trung thực, mà làm ngược lại là nâng truyền thông tuyên truyền luôn liên tục tấn công vào các phong trào xã hội vì nhân quyền, các phong trào đấu tranh của quần chúng vì độc lập, tự do và dân chủ. Chặn sự thật cùng lúc luôn đánh để diệt các chủ thể bảo vệ sự thật. Đây chính là thảm trạng của các chủ thể đấu tranh vì độc lập, toàn vẹn lảnh thổ, tự do, dân chủ và nhân quyền, họ luôn bị khủng bố, bắt bớ, giam cầm với các bản án rất nặng nề, nhưng không có các phong trào lớn trong quần chúng bảo vệ họ, trong khi các hội đoàn, các cơ quan quốc tế theo sát và bảo vệ các nạn nhân này qua nhiều mạng lưới truyền thông quốc tế.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm, luôn đóng vai vừa là: thủ phạm, vừa làm trọng tài, và nó tổ chức luôn tòa án, quyết định luôn bản án, trong đó tự nó tha tội cho nó, và trừng phạt những ai chống nó, và bất chấp công pháp quốc tế. Đây là trò mà Tàu tặc làm hàng ngày trong nhiều năm qua trên Biển Đông, vẽ đường lưỡi bò và bắt các nước láng giềng phải tuân theo, mặt dầu tòa án quốc tế đã công bố là nó hoàn toàn trái phép: trái công pháp quốc tế! Tại Biển Đông, Việt Nam là quốc gia phải trả giá rất đắt không những bị chiếm đảo, chiếm biển, mà cả lãnh đạo ĐCSVN vẫn cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối trước cảnh chúng hằng ngày bắn giết ngư phủ Việt, cấm Việt Nam cho các công ty khai thác dầu khí ngay trên thềm lục địa của mình.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm biến khuyết điểm của nạn nhân thành khuyết tật của họ, vừa trên thân thể, vừa trên tư duy qua quan hệ hằng ngày mà nạn nhân vô tri hóa, vô minh hóa, vô giác hóa bởi bị che mắt, bởi tư lợi trước mắt, mà không thấy hết dã tâm của kẻ có ý đồ thống trị mình. Đây là thí dụ diễn ra hằng ngày trên toàn diện lãnh thổ Việt: người Việt dùng tên của mình để đi mua đất cho người Tàu, chính Tàu tặc sẽ dùng con đường bất động sản này để xâm lấn ngầm, mà trước mắt là lũng đoạn xã hội Việt, và lâu dài là để khống chế Việt tộc qua con đường di dân Tàu và nhập cư mà trong quá trình đó thì Tàu làm chủ nhân, và dân Việt làm tớ.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm trong đó thủ phạm không cần tự giới thiệu về mình, và cũng không cần định nghĩa hành động của mình, nhưng ngược lại nó kể tội rất rành mạch về khuyết điểm và nhược điểm của nạn nhân trong vòng khống chế của nó. Đây là bài học về Formosa đã ô nhiễm hóa cả một môi sinh rất lớn tại miền Trung, mà vốn đầu tư chính đang thao túng trong hậu đài không phải là Đài Loan mà của Trung Quốc, qua sự thông đồng và thỏa hiệp với các lãnh đạo của ĐCSVN thân Tàu tặc. Từ Tổng bí thư tới Bộ Chính trị, từ Trung ương đảng tới chính phủ đương nhiệm không có công bố nào minh bạch về số liệu và dữ kiện, từ chứng từ tới điều tra về hậu quả Formosa, mà hậu nạn của nó ai cũng biết là qua nhiều thế hệ mai hậu. Đây sẽ là thước đo của kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm để tăng cấp bạo động lên một mức cao hơn, với một thâm ý độc ác hơn, để “ngầm đo cường độ và mức độ bán nước” của các lãnh đạo, mà lịch sử Việt đã có Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống…

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm luôn gây sức ép vừa đặt nạn nhân của nó vào vòng kiềm tỏa như luôn bị mắc nợ, từ đó chấp nhận cúi đầu làm nô lệ, nhận sự áp chế vừa qua ý thức, vừa qua vô thức bằng phản xạ lo sợ trong phòng ngự, mang tâm lý thường trực của kẻ thụ động trước chủ nợ, và sự lo sợ này có thể kéo dài cả kiếp người, rồi tác hại lên con cháu, chấp nhận thủ phạm khống chế mình đi trên vai, lưng, đầu của mình. Đây là chiến lược rất mới của Tàu tặc trong thế kỷ XXI này, mà ta chưa thấy trong lịch sử của hai nước Việt-Trung, mà đây chính là thủ thuật của lãnh đạo Bắc Kinh đang tự biến mình thành chủ nợ lớn nhất thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, trên nhiều châu lục. Trong bối cảnh này, các quốc gia thiếu nợ phải bán đất, bán tài nguyên, tức là bán chủ quyền cho Tàu khai thác cho tới cạn kiệt tài nguyên, vật liệu ngay trên đất nước của mình. Sri-Lanka mới rơi vào bẫy này, sau khi Hy Lạp cũng đã rơi khi nhượng quyền khai thác hải cảng của mình cho Tàu, và nhiều quốc gia châu Phi cũng bị gài bẫy, đang nằm trong danh sách này. Đây cũng là cái bẫy đang sập xuống Việt Nam với quá trình bỏ phiếu của quốc hội tháng 6 năm 2018 này, trước hiểm họa đồng ý lập ra ba đặc khu: Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc với quyền khai thác 99 năm (gần 1 thế kỷ với 4 thế hệ) mà khi mua được và khai thác được thì Tàu tặc sẽ có các phương án di dân, nhập cư, từ đó thôn tính Việt Nam mà không cần dùng bạo động quân sự nổi, như đã dùng tại Tây Tạng trong thế kỷ qua.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm với quá trình của chủ nợ, thì kẻ làm chủ luôn mua rẻ và bán lại rất đắt, từ bất động sản tới các sản phẩm của nông nghiệp, từ dịch vụ tới khoa học kỹ thuật, trong đó quốc gia nạn nhân phải cung cấp công nhân với lương bổng thấp, điều kiện lao động tồi, và cả một hệ thống hàng dọc từ định chế tới cơ chế chịu nhận hối lộ qua các mô thức tham nhũng, mà kẻ khống chế đặt ra và bày vẻ cho tay sai của chúng phải tuân thủ để có tư lợi và được sống còn. Lúc cần xiết cổ nạn nhân thì chúng sẽ dùng phân lời cao cùng với xảo thuật đổi hợp đồng, thay giao kèo, và chúng có thể dùng nhân lực của chúng đã được chúng thuần hóa, đã chấp nhận mọi điều kiện lương bổng và lao động tồi tệ nhất, đó chính là nhân dân của chúng. Trung Quốc có quá trình bóc lột tận xương tủy giữa Hán tộc với nhau, đây là điểm xấu của lịch sử Tàu, mà các lãnh đạo Tàu tặc dùng như một lợi thế, một vũ khí để lấy người Tàu thay người Việt. Đây chính là loại nhà tù vô hình của khống chế kiểu tầu mà các nước nhỏ chung quanh Trung Quốc biết rất rõ: công nhân và nhân viên Tàu nhận làm các công việc nhọc nhằn nhất, trong điều kiện tủi nhục nhất để kiếm sống. Mà họ luôn có “đủ người nhờ biển người” từ chiến tranh tới kinh tế, từ di dân tới nhập cư. Các quốc gia kề cạnh với Trung Quốc luôn phải nhận họa kiếp về số lượng, đây là một chân lý đã được hình thành rất lâu và luôn có trong tư duy của lãnh đạo Bắc Kinh. Giữa cuộc chiến tàn khốc huynh đệ tương tàn giữa miền Nam và miền Bắc, trong đó ĐCSVN luôn bị dẵm chân, dẵm lưng, dẵm mặt, thì có lần Mao Trạch Đông đã nói thẳng vào mặt của Lê Duẩn là hắn ta đã có chiến dịch di dân Tàu xuống Việt Nam và xuống tất cả các quốc gia Đông Nam Á.

– Kẻ xâm lược dùng khống chế qua bạo động ngầm thường thao túng các hợp tác song phương trên thượng nguồn, biến nó thành các hợp đồng bất chính giữa bọn khống chế và các lãnh đạo tham nhũng của các quốc gia nạn nhân, với hiệu quả rất cao mà ông bà ta đã đúc kết qua ngạn ngữ “cầm dao đằng chuôi”, như chủ nợ khi xiết nợ thì chúng vừa dùng luật pháp cùng lúc dùng xảo thuật chính trị để vô hiệu hóa pháp luật. Chính lãnh đạo Bắc Kinh sẽ là kẻ tuyên bố đầu tiên để dồn ép các lãnh đạo ĐCSVN vào đường cùng, để phục vụ ý đồ đô hộ Việt tộc của chúng bằng cách đe dọa sẽ bày biện hóa các văn bản với các chứng từ thỏa thuận về mật nghị Thành Đô. Cũng như chúng đã tung ra chứng từ về văn bản có chữ ký của thủ tướng Phạm Văn Đồng trong chuyện nhượng chủ quyền Hoàng Sa cho Tàu tặc. Chưa hết, chúng sẽ là đám ma đầu tiên phá vỡ huyền thoại Hồ Chí Minh, vị cha già của dân tộc, suốt đời hy sinh vì đất nước, quên cả chuyện lấy vợ và lập gia đình, và lần này với tất cả đầy đủ chứng cớ là nhân vật này “có vợ lẻ Tàu, con rơi gốc Tàu”, và trước đó đã có bao nhiêu mối hoang tình tại Âu châu. Các nạn nhân bị ô nhiễm tư duy qua nhồi sọ của ĐCSVN về “đạo đức Bác Hồ” sẽ phải “chưng hửng” vì đã quá vô tri làm nạn nhân trong quá trình giáo dưỡng vô minh hóa bằng cách thần tượng hóa nhân vật này.

***
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm các lập luận qua nghiên cứu của VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa) qua www.facebook.com/vungkhaluan/

*
*

GS Lê Hữu Khóa
30/06/2018

Tàu họa: quá trình áp chế bằng bạo quyền ngầm

Hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế), song hành với hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng) luôn dựa lên hệ bạo (bạoquyềnbạo lực, bạo động), cả ba thường được thể hiện qua cách “chơi ngang”, “chơi gác”, “chơi đểu” của kẻ khống chế đè lên đầu nạn nhân của nó. Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn có ít nhất ba chiến lược: áp đặt quyền thống chế trên chính trị, quân sự, ngoại giao, mà cả lên kinh tế, tài chính, vật chất, chưa hết, nó áp đặt để áp chế cả về văn hóa, giáo dục, nghệ thuật của nó qua truyền thông, qua thương mại, qua xuất nhập khẩu.

Đây là thảm kịch của nhiều thế hệ Việt hiện nay, với các người lớn tuổi, nhỏ tuổi suốt ngày xem phim ảnh Tàu tràn lan khắp các kênh truyền hình, với các thành viên khâm phục diễn viên, tài tử Tàu, với các sản phẩm văn hóa ở cấp xấu, tồi, tục, dở nhưng được quảng cáo và tuyên truyền là mới, là hay, là chuẩn, là lạ.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, sáng lập tương lai của nó qua chương trình trong đó nạn nhân của nó phải có đóng góp qua quá trình bị bóc lột, bị khổ sai trong nô lệ trên nhiều lãnh vực, ngay trong sinh hoạt của chính mình. Trong đó không những chủ là Tàu, mà các dịch vụ có quyền uy, có chất lượng đều do Tàu thống lãnh hoặc bị nó thao túng, cụ thể là nạn nhân phải gián tiếp đóng góp vào các phương án phát triển của kẻ xâm lược mình. Đây là thảm họa không sao lường hết được trong đó nạn nhận là Việt tộc phải cúi đầu cam nhận các công nghiệp ô nhiễm nhất, các doanh nghiệp bất chính nhất, các lực lượng lao động thậm tệ nhất ngay trên đất nước Việt để phục vụ cho thâm ý của Tàu tặc là đặt các quy trình sản suất bẩn nhất, ô nhiễm nhất bắt buộc Việt tộc nhận, và chúng sẽ biến đất nước chúng “ngày càng sạch”, vì đống rác của chúng đã ở tại Việt Nam.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, luôn lý luận theo hệ dây chuyền để biến nó thành dây xích để xiềng cổ, còng tay nạn nhân của nó, biến lệ thuộc chính trị dài lâu thành quy phục quân sự qua nhiều thế hệ, dựa trên thỏa hiệp ngầm luôn có lời cho kẻ xâm lược. Đây là hệ lụy tàu nạn rỏ nhất trong những năm qua, mà nạn nhân là các chiến sĩ biên phòng bảo vệ đảo Gạc Ma, không dược quyền tự vệ, phải buông súng hy sinh trong vô nghĩa, khi Lê Đức Anh là bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra lệnh không được cầm súng để bảo vệ biển đảo của quê hương. Cái xiềng cổ của mật nghị Thành đô đã xiết cổ, khóa họng bọn lãnh đạo bán nước, nhắm mắt làm ngơ cho Tàu tặc cướp nước, rồi ngày ngày “tuyên truyền dùm” qua các mỹ từ: “hai đảng anh em”, “hai láng giềng tốt”… Kẻ xâm lược dùng ức chế bằng bạo quyền, thì luôn có tay sai của nó trong giới lảnh đạo của quốc gia nạn nhân để thi hành chuyện bành trướng và bá quyền của nó.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, luôn sử dụng hai chiêu bài cảnh cáo và trừng phạt luôn áp đặt nạn nhân rơi vào vào quy trình tự kiểm (kiểm duyệt, kiểm tra, kiểm thảo)trước mặt chúng để chúng có bằng chứng về sự quy phục và sự thuần thảo của nạn nhân. Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rất thuần thục chiêu bài “chỉnh đốn đảng” do các quan thầy của ĐCSTQ bày vẻ, và quá trình chống tham nhũng hiện nay là phản xạ trung thành, để chứng tỏ là mình ngoan ngoãn với Tàu chủ của mình. Thảm kịch của ĐCSVN không những phải cúi đầu-khoanh tay-qùy gối, mà còn phải nhận một quá trình “huấn nhục” trước đàn anh Bắc Kinh, trong đó phải chứng minh cho kẻ áp chế mình hai hành vi: nhẫn nhịn hóa để hèn nhục hóa, đây chính là định nghĩa của tha hóa. Chưa hết, phải biết “học thuộc bài để học thuộc lòng” các bài học mà Tập Cận Bình đã làm tại Trung Quốc là chống tham nhũng, nhưng thực chất là tranh giành quyền lực qua quá trình thành trừng lẩn nhau để thủ tiêu các nhóm đối kháng, để làm lại một sao bảng tàu tại Việt Nam.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, luôn giữ lý lịch nạn nhân (như giư hồ sơ cá nhân của Hồ Chí Minh có vợ Tàu, con Tàu), nó cầm trong tay hồ sơ về thói hư tật xấu của nạn nhân để thao túng hành vi và hành động của nạn nhân. Nó sử dụng hồ sơ mật cá nhân để giật dây nạn nhân trong cả cuộc đời và sự nghiệp của họ. Mật hóa rồi công khai hóa hồ sơ về bí mật cá nhân để thao túng nạn nhân chính là các lảnh đạo của ĐCSVN, mà nắm hồ sơ mật là để nạn nhân ở thế “cá nằm trên thớt”. Đây là tai họa của Tàu nạn trong việc chia cắt đất nước đất nước Việt ra làm hai năm 1954 tại Genève, mà cái thâm, độc, ác, hiểm của Tàu họa, chính Chu Ân Lai áp đặt vỉ tuyến 17, trên sông Bến Hải để chia cắt đất nước ta, mà trưởng đoàn của Việt Minh là Phạm Văn Đồng, ngay bàn đàm phán còn không biết sông Bến Hải là ở chỗ nào? Ông bà ta dặn con cháu muốn thắng giặc thì phải “đi guốt trong bụng giặc”, chính Tàu tặc đã nhiều lần đi guốc trong bụng chúng ta khi sử dụng Kiều Công Tiển, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, trong các lãnh đạo cộng sản Việt Nam có Hoàng Văn Hoan mở đường; mà tướng Trương Giang Long đã báo cho ta biết gần đây là có hằng trăm loại bán nước kiểu này hay kiểu kia trong ĐCSVN hiện nay.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, thường bắt buộc nạn nhân phải quan sát các động thái của nó để đoán trước các ý muốn của nó, và tự kiểm duyệt mọi quyền lợi riêng của mình “để làm vừa lòng” kẻ xâm lược. Đây là một thảm họa ngầm nhưng âm ỉ trong sinh hoạt lãnh đạo của ĐCSVN, muốn Tàu tặc che chở, bảo kê cho mình thì phải “ra công thi đua” để “làm vừa lòng đàn anh”, sẵn sàng chi trả các giá phải trả cho mình, từ đó biến kẻ phản phúc, phản đồng đội thành kẻ về lâu, về dài là kẻ bán nước, có thể sống và chết bên Tàu, mà không cần “quê cha đất tổ”, không cần “lá rụng về cội”, quên luôn nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình. Khi biết là “bán nước” mà sống bên Tàu “không vui” mà còn “mang nhục vào thân” thì phải tẩu tán tiền của qua phương Tây, và đã chuẩn bị quốc tịch nước ngoài. Bán nước rồi bỏ chạy là kiếp của bọn phản phúc, lấy phản quốc làm dàn phóng phản xạ đào tẩu.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm, thường sử dụng sức ép chính trị để làm giầu trong thương mại, tăng trưởng trong kinh tế, và nó luôn lấy sức mạnh quân sự để làm trước, làm thay, làm càng để qua mặt nạn nhân của nó. Tàu tặc không những khai thác dầu khí trên biển Đông, sau khi cướp được đảo của Việt Nam, mà chúng còn tự nhiên và ngang nhiên xây dựng các căn cứ quân sự, cùng lúc phát triển du lịch trên đất vừa cướp được của nạn nhân. Đây là câu chuyện rất khó cho Việt tộc với một kẻ vừa mạnh và vừa tục, vừa bạo và vừa thô, Tàu tặc không có một mẫu số chung gì với các đạo lý của Khổng Tử, Lảo Tử, Mạnh Tử, Trang Tử mà ta vẫn xem là các bậc thầy. Tàu tặc xây các viện Khổng học để làm chuyện phản Khổng học, tức là phản đạo lý của chữ nhân trong Khổng giáo. Đừng mong chúng dùng các phạm trù lý luận về đạo lý trong Khổng giáo để biết lẽ phải, để đàm phán đàng hoàng và tử tế với ta. Nếu các lảnh đạo của ĐCSVN có bản lĩnh chính trị, có tầm vóc tri thức, có nội công nhân lý thì cứ tổ chức các hội nghị, hội luận, hội thảo về Hoàng Sa và Trường Sa qua cách tiếp cận của đạo đức Khổng giáo và mời các lãnh đạo Tàu tặc xem chúng có đủ can đảm tham dự không?

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn bắt nạn nhân của nó phải theo sự vận hành của nó, để tạo các đặc quyền, đặc lợi cho nó, trong đó có các đặc khu Hà Tỉnh, mà ta đã phải nhận biết bao Tàu nạn từ biến cố ô nhiễm của Formosa. Bạo quyền ngầm thường thông báo mật cho các tay sai của nó là lãnh đạo của quần chúng nạn nhân về các phương án của nó, sau đó yêu cầu trực tiếp hay gián tiếp lãnh đạo tay sai này của nó phải công bố các phương án tương lai của mình để kẻ xâm lược được chọn chỗ “ăn trên ngồi trốc”, lâu dài hưởng lợi trong nhàn rỗi và bỉ ổi “ngồi mát ăn bát vàng”Đây là các thảm họa dây chuyền áp đặt bởi Tàu tặc, vì sau Hà Tĩnh với Formosa, thì lãnh đạo tay sai này sẽ dâng các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc cho chúng.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn tính hai chuyện “chưa đánh đã thắng” nạn nhân của nó, hoặc “thắng trước khi đánh”; mà trong thâm ý của nó là không cho phép nạn nhân của nó: tiết kiệm được tiền của, tích lủy được lợi nhuận, dành dụm được của cải để đầu tư, để phát triển, để làm giầu. Đây là bi sử của Việt tộc, luôn bị Tàu tặc xấm chiếm rồi xâm lược, xâm lăng rồi đô hộ, cùng lúc Tàu tặc luôn áp đặt trên lưng, trên vai, trên đầu người Việt những cuộc chiến tàn khốc để người Việt phải chịu hao tổn sinh lực, suy kiệt tiềm lực, tán gia bại sản ngay trên đất nước mình.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm luôn tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó làm đau đớn tức khắcnạn nhân của nó, và sau đó làm đau khổ dài lâu cho tư duy của nạn nhân, từ đó chính đồng bào sẽ khinh rẻ lãnh đạo, vì lãnh đạo bất tín với dân tộc, trong một xã hội mà ai cũng là nạn nhân, và thủ đoạn của kẻ xâm lược là không chừa một ai trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt xã hội, trong quan hệ xã hội. Nơi mà dân tộc phải sống trong ngờ vực, nghi kỵ, rình rập, nhìn đâu cũng thấy bẫy của giặc, mà đây là sự thực vì bẫy của Tàu tặc không phải là một mà là trăm, ngàn, qua một mạng lướiđược bố trí như màng nhện mà nạn nhân là con mồi! Chính đau khổ của Việt tộc sẽ trở thành nỗi sợ hãi, nỗi lo lắng, trầm cảm tập thể với nhiều sức ép tới từ nhiều phía, từ biển đảo tới thực phẩm, từ môi trường tới quốc phòng, từ thương mại tới công nghiệp, từ xuất nhập khẩu tới đời sống văn hóa, giáo dục, tâm linh… mà muốn thoát Tàu chỉ có cách dùng can đảm của chính mình để khẳng định nhân tính của mình, lấy bất khuất để xác chứng nhân phẩm của mình.

– Kẻ xâm lược dùng áp chế qua bạo quyền ngầm thường nói “nửa lời” để nạn nhân vừa phải đoán đầy đủ thâm ý của nó, vì sợ bạo lực của nó, vì kẻ áp chế càng mập mờ thì nạn nhân càng rơi vô bẫy. Cách ăn nói “lập lờ” kẻ xâm lược vừa là một xảo ngôn để khống chế, vừa là một vũ khí dùng đó như cái cớ mà hãm hại nạn nhân. Đây là thảm kịch của các lãnh đạo ĐCSVN luôn sống và quan hệ với Tàu tặc trong cái nơm nớp lo sợ là có ngày chúng sẽ công bố toàn bộ mật nghị Thành Đô, đời sống không đạo đức của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Âu châu… các tên tuổi của các tay sai đã, đang phản quốc, bán nước đang còn sống và còn quyền trong ĐCSVN.

Tàu hoại: quá trình ức chế bằng bạo ngược ngầm

Hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế), song hành với hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng) cả hai cặp kè với hệ bạo (bạoquyềnbạo lực, bạo động), nhưng không quên khai thác hệ tà (tà quyền, tà lực, tà đạo) sinh ra  tâm của một số bọn lãnh đạo bán nước, vì “theo ma phải sợ ma”, “theo quỷ phải sợ quỷ”, “theo Tàu vì sợ Tàu”.

Chính kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) để chế tác tiếp theo hệ hoại (phá hoại, hủy hoại, di hoại). Đây là nguyên nhân mà mọi người Việt có trách nhiệm với đất nước, có lương tri với đồng bào mình phải thấy, hiểu, thấu độ sâu hiểm, độ xa độc, độ ác rộng của ngữ pháp Tàu hoại. Và đây là hằng số đề phòng, hàm số cẩn trọng của tất cả các lãnh đạo của Việt Nam trong các năm tới, vì bọn lãnh đạo hiện nay xem như theo Tàu rồi! Đây cũng là hệ vấn đề nghiên cứu thường xuyên của tất cả các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn trước hoại Tàu nạn và Tàu họa:

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ này, để chế ra các phương án mới, bắt nạn nhân của nó phải chạy theo nó trong hoảng sợ, trong tán loạn, “mất hồn như bị ma đuổi”, làm nạn nhân mà không sao chủ động được số kiếp của mình, nếu mình đã nhận “bán nước” cho Tàu tà. Kẻ khống chế lắm bạc nhiều tiền, là chủ nợ rồi thì chúng sẽ muốn làm chủ đất, đó là quy luật “chiếm đất để chiếm nước” của chúng. Đây là nơi mà các lãnh đạo của ĐCSVN đang bị rơi bẫy: Tàu vào đất Việt như chốn không người, sau khi đã chiếm đảo biển, giờ thì mua tràn lan bất động sản qua tên người Việt trên cả nước, chưa đủ, Bộ Chính trị của ĐCSVN đã mở cửa mời chúng trong ba đặc khu: Vân Đồn miền Bắc cận kề với Tàu, Bắc Vân Phong miền Trung giữa địa dư chiến lược Thái Bình Dương, Phú Quốc miền Nam ngã tư của Việt Nam với Đông Nam Á.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn là thủ phạm giữ số liệu và tin tức mật nhiều hơn nạn nhân của nó, vì nó luôn khai thác các ngõ ngách của đấu tranh nội bộ giữa các nhóm quyền lực, giữa các nhóm lợi ích, giữa các mafia dùng tà quyền để thành trừng lẫn nhau, mà nó sẽ là “ngư ông đắc lợi”. Và, chúng càng thích thú vị thế “ngọa sơn để xem hổ đấu”, chiêm ngưỡng các bè nhóm tiêu diệt nhau, nhưng hậu quả là “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”, chỉ có dân khổ, dân nghèo, dân chết… Đây là chuyện có tính toán của kẻ khống chế sử dụng bốn hệ này. Hoạn kịch của ĐCSVN trong chiến dịch chống tham nhũng của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đi cùng với các cuộc thanh trừng nhau qua ám sát các lãnh đạo Yên Bái cho tới các cuộc giết hại nhau trong các bộ Quốc phòng và Công an, đồng điệu với các chiến dịch đàn áp các chủ thể đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền.

– Kẻ khống chế sử dụng 4 hệ (khống, xâm, bạo, tà) rất thích thú khi bọn tay sai tư pháp của ĐCSVN tuyên án nhiều năm tù chống nhóm Anh Em dân chủ, mà các người mẹ của lương tâm Việt như Nguyễn Thị Như Quỳnh (Mẹ Nấm), Nguyễn Thị Nga…và chúng rất khoái trá khi số tù nhân lương tâm ngày càng tăng trong các nhà tù cộng sản, mà các lãnh đạo ĐCSVN chứng tỏ mình “mạnh tay đàn áp” để “lấy điểm” với kẻ xâm lược.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn bắt nạn nhân của nó phải hiểu chủ thuyết dân tộc trung tâm của nó: Trung Hoa tức là ở trung tâm và hoa mỹ hơn các nơi chung quanh. Chủ nghĩa dân tộc trung tâm tạo tiền đề cho kẻ xâm lược tuyên truyền về một văn hóa đẹp ở giữa trần gian của nó, mà còn luôn “rộng miệng” tuyên bố nó là một văn minh cao, cùng lúc tạo các làn sóng xuất khẩu tràn lan văn hóa phẩm của nó vào xã hội của nạn nhân. Một bi kịch mà mỗi người Việt hiện nay thấy hằng giờ các phim ảnh, âm nhạc, thời trang… của Tàu trong nhà ngoài phố, từ chợ tới các kinh truyền hình, xem những bộ phim dài của Tàu, trong thụ động như đang sống trong một tư thế tiêu thụ thấp kém nhất.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn áp bức nạn nhân của nó phải hiểu cơ cấu tu duy và lý luận của kẻ xâm lược, cùng lúc thôi thúc bọn lãnh đạo bán nước để “cửa ngõ”, với tư thế sẵn sàng vừa hợp tác, vừa đầu tư làm giầu tức khắc hoặc lâu dài cho kẻ thống trị. Đây là thảm họa biển người du lịch Tàu đang dầy đặc đất nước Việt, nhiễm ô môi trường du lịch, lại còn mang cả các dịch vụ của chúng vào tận đất nước Việt, cùng bảng hiệu toàn chữ hoa. Thậm chí lợi nhuận không về phía dịch vụ du lịch Việt. Trong khi đó khách du lịch các quốc gia văn minh luôn tránh né du khách Tàu phản cảm vì phản văn minh, họ không muốn trở lại đất Việt để thấy cảnh “chướng tai gai mắt” đất nước Việt đang bị Tàu hóa.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn có một đạo đức giả, dựa trên mỵ dân thô bỉ là nó hay giở trò tổ chức “sống chung” theo ý đồ của kẻ thống trị: bạn vàng, láng giềng tốt, liền núi liền sông… cùng lúc nó không bao giờ cho nạn nhân của nó có vị thế trung tâm như nó, mà phải là nạn nhân trọn kiếp để chạy theo các quyết định và hành động của nó, vì nó đã loại nạn nhân của nó ra ngoài quy trình đề nghị-đàm phán-quyết định-hành động mà nó là kẻ chủ mưu. Đây là kiếp nô lệ của các lãnh đạo ĐCSVN từ gần một thế kỷ qua, từ khi thành lập ĐCSVN năm 1930, với thế hệ đầu tiên của nhóm do Hồ Chí Minh lãnh đạo với các cuộc thảm sát trong cải cách ruộng đất 1954-1956. Sau đó là thế hệ của Lê Duẩn cùng tên ma hoạn Lê Đức Thọ bắt Việt tộc phải trả giá cuộc chiến huynh đệ tương tàn 1954-1975, đánh Mỹ thế cho Tàu, mà mệnh danh nó là chống Mỹ cứu nước. Cho tới nay, với nhiều phe cánh trong ĐCSVN luôn hèn yếu trong ô nhục ngày ngày “lấy lòng Tàu”. Nô lệ hóa Việt tộc qua con đường Tàu hoại này có thượng nguồn vô hình là các âm mưu của các lãnh đạo ĐCSVN đang làm tay sai cho Tàu, và nó ngày ngày hiện hình hóa qua các chính sách đặc khu qua đặc lợi và đặc quyền, để thường xuyên ưu đãi kẻ xâm lược mà nó không cần phải dùng quân sự hay bạo lực.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn xếp theo trình độ và đẳng cấp các ý đồ ma hoại của nó, để nạn nhân luôn là nạn nhân, để nạn nhân không có cơ hội và điều kiện để đoán đúng các mưu đồ thâm, độc, ác, hiểm, vì các mưu đồ này luôn nằm ngoài lương tâm, luôn nằm xa lương tri của nạn nhân, chỉ vì nạn nhân được giáo dục, được giáo dưỡng bằng đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, và rất xa lạ với cái phản luân lýthâm, độc, ác, hiểm. Kẻ khống chế luôn áp đặt biểu tượng thống trị lên tư duy của nạn nhân, để nạn nhân phải nhận kẻ thống trị vừa là lãnh đạo, vừa là giá trị hướng dẫn cuộc sống và quyền lợi của mình. Hoại kịch của Việt tộc là các lãnh đạo ĐCSVN không do đảng bầu ra, mà dân tộc bị áp chế bới một đảng đang cai trị mình. Đó là thí dụ bi đát của bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, trong tháng 6 năm 2018, khi bà bị chất vấn về xảo thuật đặc khu (Vân Đồn, Bác Vân Phong, Phú Quốc) mà dư luận đã phán kháng kịch liệt, thì bà đã trả lời là: “đã được Bộ Chính trị bàn rồi!”, mà bà không biết là bà đang điếm hóa lập pháp trước hành pháp dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị mà bà là một thành viên. Không do dân bầu ra, nên vô tri vì vô trí trước họa Tàu tặc mà bà không biết là trong lịch sử Việt cũng như trong lịch sử của thế giới, của tất cả châu lục là Tàu luôn di dân dày đặc những nơi chúng tới, và sau đó không có một chỉnh phủ nào, một quốc gia nào có thể bứng đi được các khu Tàu, xóm Tàu, thành phố Tàu… Ngược lại bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tạo viễn tưởng kiểu đánh lận con đen, để tạo ảo tưởng cho dân là nếu có đặc khu thì: “một đồng bỏ ra sẽ có lời cả trăm đồng sau đó…”. Bà đang quên hiện tại của dân chúng là các công trình mà Tàu rờ tới là “đội giá” và sau đó là “thua lỗ”: bốc xích Tây Nguyên, tuyến đường Cát Linh-Hà Đông tại ngay thủ đô Hà Nội. Vô tri vì vô trí luôn là tiêu chuẩn để kẻ xâm lược chọn lãnh đạo bán nước làm tay sai cho nó.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn tạo ra các mồi để nhử các lãnh đạo bán nước, nó mua chuộc xong đám lãnh đạo này, thì chính đám này phải tuyên truyền phản sự thật để được tiếp tục được lãnh đạo, cùng lúc tiếp tục nhận tư lợi được ban thí bởi kẻ khống chế. Đây là chiến thuật mà trong chính trị học gọi là xảo thuật đồng hồ, khi kẻ thống trị nghênh ngang trong quỷ thuật nói với bọn lãnh đạo bán nước là: “Hãy đưa đồng hồ của mày đang đeo trên tay cho tao, thì tao sẽ báo đúng giờ cho mày biết!” Đây là cái bẫy mà ông bà ta đặt tên là “khôn quá hóa dại” bọn lãnh đạo bán nước, luôn tưởng là được Tàu tặc bao che, nhưng thực chất là chúng bán đứng bọn này như trở bàn tayBọn lãnh đạo bán nước tưởng đưa được tiền của, con cái, gia đình ra được phương Tây, thì sẽ yên thân mà “cao bay, xa chạy” tại phương Tây: chúng lầm! Phương Tây hiện nay là hình ảnh của cộng hòa Đức đang tố cáo ĐCSVN đã bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, trục xuất các nhân viên tình báo chung quanh sứ quán Việt Nam tại Đức, ra lịnh truy tố các tướng tá đã tham dự vào cuộc bắt cóc ngu xuẩn này vì đã làm sụp đổ liên minh kinh tế Đức-Việt. Nó ngu xuẩn vì nó diệt một đối tác quan trọng là Đức, nó ngu xuẩn vì nó bắt một thằng gian mà làm khổ bao nhiêu người Việt lành đang sống tại Đức, làm khổ luôn cho tất cả các liên minh kinh tế sắp tới của một quốc gia gần một trăm triệu dân như Việt Nam, đang cần phải ra khỏi nghèo đói, lạc hậu càng sớm càng hay.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn áp đặt xảo thuật bắt nạn nhân của nó ngày ngày phải nhượng bộ đủ điều để được sống yên, để được giảm sức ép tới từ sự không chế, và ngày càng đi sâu vào bẫy của nó. Đây là hoạt cảnh của đất nước Việt hiện nay, sau khi Tàu tặc chiếm biển đảo, rồi vẽ ra hình “lưỡi bò” mà không một đất nước nào trong Liên Hiệp Quốc ra mặt ủng hộ Tàu. Tiếp theo nó liên tục xây dựng các căn cứ quân sự để ăn hiếp tất cả các nước láng giềng, nhất là dọa nạt Việt Nam. Mỗi lần chúng dọa nạt là chúng thành công với “chiến thuật cúi đầu đu dây một thân, một mình của ĐCSVN”, mặc cho Tàu tặc đu dây trên đầu của mình, khi chúng cấm đoán ĐCSVN cho phép các công ty ngoại quốc tới khai thác dầu trên thềm lục địa của Việt Nam. Tính toán chiến thuật có ý đồ thâm hiểm của Tàu tặc là âm thầm “sĩ nhục hóa” lãnh đạo ĐCSVN để “điếm nhục hóa” ĐCSVN trên chính trường quốc tế, nhất là trước mặt các nước láng giềng trong khu vực châu Á thái bình dương, từ Lào cho tới Campuchia, từ Nhật Bản cho tới tận Úc.

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn áp đặt hai chuyện lên nạn nhân của nó: thứ nhất địa vị chính là địa điểm của kẻ khống chế trên một không gian vừa cao, vừa rộng; thứ hai là nạn nhân chỉ là một điểm nhỏ, được định vị như vừa nhược, vừa tiểu trong không gian mà nó điều hành. Chính kẻ khống chế sẽ giới thiệu không gian của nó mà nạn nhân của nó chỉ là công cụ thấp và một phần tử bé trong phần trình bày không gian đó. Đây là thảm họa trá hình các hiệp ước, các ký kết giữa Tập Cận Bình chủ trì và Nguyễn Phú Trọng phải tung hô trong các chương trình hợp tác đào tạo cán bộ chung, mà ai cũng biết là cán bộ Việt Nam phải qua Tàu để học, và cán bộ Tàu tới Việt Nam để chỉ tay năm ngón. Chính Tàu tặc cướp nước Việt. Tập Cận Bình hiên ngang tới quốc hội Việt Nam tuyên bố luận điệu của nó, mà ta không thấy lãnh đạo ĐCSVN tuyên bố gì về can đảm chủ quyền, dũng khí độc lập, cường lực dân tộc quyết bảo vệ quê hương. Cái hèn là anh của cái nhục, là cha đẻ của cái điếm trị!

– Kẻ khống chế sử dụng bốn hệ (khống, xâm, bạo, tà) luôn đưa ra hai loại xếp hạng do nó đặt ra: thứ nhất ai bán nước thì được gần kề quyền quyết định của nó như một đặc ân; thứ hai phải xem và hưởng sự kề cận này như một đặc quyền, đặc lợi, mà nhóm theo Tàu thì được “chống lưng” bởi Tàu, thì phải dẹp các nhóm không có Tàu “đỡ lưng” để còn đường sống: vì chỉ ĐCSTQ mới cứu được ĐCSVN! Chung quy thì không có một dân tộc nào, một quốc gia nào muốn ĐCSVN tồn tại và sống sót, nhất là dân tộc Việt Nam. Đây là một thảm họa sâu không đáy của ĐCSVN, mất phương hướng trong độc lập suy nghĩ, mất định hướng trong tự chủ tư duy, trong bối cảnh không có liên minh quốc tế trung tín, vì muốn trung tín với các đối tác thì phải nhân tính trong nhân đạo như họ qua nhân quyền dựa trên dân chủ, tự do trong đa nguyên. Cho nên, nhân dân thấy rất rõ bi kịch này của ĐCSVN: “theo Tàu thì mất nước, mà theo dân chủ thì mất đảng”.

***
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm các lập luận qua nghiên cứu của VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa) qua www.facebook.com/vungkhaluan/

*
*
GS Lê Hữu Khóa
01/07/2018

Phân tích tà dạng của phương trình Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu hoại

Một phương trình luôn là quan hệ giữa ẩn số và hằng số, trong đó các hàm số chuyển biến theo ít nhất ba hệ: hệ tự (tự tin, tự trọng, tự chủ) của nạn nhân vượt thoát và vượt thắng được kẻ xâm lược bằng hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) để thay đời đổi kiếp cho mình qua hệ cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, thực cảnh) không những qua trực diện với kẻ thù xâm lăng, mà còn biết khai thác tất cả các liên minh ủng hộ và cổ vũ cho độc lập, tự do, nhân quyền của mình. Cụ thể nhất là lập ra ngay các liên minh sau đây:

·         Liên minh với các nước láng giềng gần cũng là nạn nhân như mình trong khu vực, trong đó láng giềng thật chính là các nước Đông Nam Á.
·         Liên minh với các nước láng giềng xa cũng là nạn nhân như mình trong các châu Á, trong đó láng giềng thương, chính là Tây Tạng, Mông Cổ… xa địa lý nhưng gần tâm cảnh với ta.
·         Liên minh với các nước láng giềng gần xa ít nhiều là nạn nhân như mình trong khu vực, trong đó láng giềng tin chính là các châu Á, trong đó có không những có Nhật mà cũng có Đài Loan, Hàn quốc, Singapour.
·         Liên minh với các nước láng giềng liên châu lục có lịch sử là nạn nhân của Tàu tặc, trong đó láng giềng vững là Ấn Độ khi tìm ra đồng thuận với họ.
·         Liên minh với các nước láng giềng xa, xa mặt nhưng không cách lòng, như các nước dân chủ phương Tây, hiện nay ngày ngày là nạn nhân của Tàu nạn trong các xảo thuật gian lận từ chính trị tới kinh tế, từ quân sự tới thương mại…
·         Liên minh với các nước láng giềng mới, cả một Phi châu đang bị lừa đảo, bị chụp giật tài nguyên, bị khai thác tới cùng cực từ nhiên liệu tới nhân lực.

Càng nhiều liên minh càng nhiều đồng minh! Mà đồng minh trên cơ sở bình đẳng qua công pháp quốc tế, chớ không phải là “đồng chí trong bi hoạt cảnh” của phương trình Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu hoại:

·         hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế),
·         hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng),
·         hệ bạo (bạo quyềnbạo lực, bạo động),
·         hệ tà (tà quyền, tà lực, tà đạo),
·         hệ hoại (phá hoại, hủy hoại, di hoại).

Từ đây phải hiểu cho thấu hệ hành (hành vi, hành động, hành tác) của phương trình Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu hoại, trong cách hệ hóa (chuyển hóa, biến hóa, đột hóa) của nó:

·         Kẻ khống chế áp đặt hệ tồn trong chiến thuật áp chế: tồn tạicủa kẻ khống chế chính là nỗi lo tồn vong của nạn nhân: yên thân trong tủi nhục, cúi đầu trong tủi phận.
·         Kẻ khống chế chỉ đưa những tin tức thiếu thốn và què quặt cho nạn nhân, để lèo lái nạn nhân vào bẫy, tự nạn nhân sa lầy vì thiếu tin tức, không đủ dữ kiện để tự quyết định sáng suốt, để có hành động chỉnh lý.
·         Kẻ khống chế bày biện một đồ hình ngay thượng nguồn rồi áp đặt đồ hình này vào hành vi của nạn nhân, và bắt nạn nhân phải hành động với hành tác có điều kiện, mà các điều kiện là do kẻ thống trị áp đặt.
·         Kẻ khống chế đưa đẩy nạn nhân vào mê lộ, như lạc vào rừng, và đi theo định hướng của kẻ thống trị, vì kẻ xâm lược này chính giữ định vị của bắc đẩu, của kim chỉ nam để thao túng đường đi nước bước của nạn nhân.
·         Kẻ khống chế đưa nạn nhân vào mê hồn trận của nó, thí dụ của Việt Nam thật bi thảm: cả thủ tướng và tổng bí thư ĐCSVN đều thi nhau “lấy lòng Tàu”, thường xuyên làm “vừa lòng” Tập Cận Bình để chứng tỏ là mình ngoan ngoãn, dễ bảo, vâng lời trong thuần phục, đây là bi hoạn hiện nay của các lãnh đạo ĐCSVN đã “bán thân cho Tàu tặc”.
·         Kẻ khống chế áp đặt vào não bộ của nạn nhân để cưỡng chế tư duy, phải luôn thực thi theo hướng của kẻ khống chế, phải thi hành theo ý muốn của kẻ khống chế, mà lắm lúc không biết rành mạch, rõ ràng về ý đồ của nó.
·         Kẻ khống chế bắt nạn nhân của nó phải học cách “đồng cảm để đồng điệu” với kẻ khống chế, như “học trưởng thành cạnh đàn anh”, như học các “kinh nghiệm giang hồ ma tặc” cần thiết để sống còn, sống sót qua quá trình xây dựng tri thức trong vị thế của nạn nhân trong tiền dạng thực hành: tự kiểm duyệt hành động của mình trước khi thực thi hành động của chính mình trên ngay không gian và thời gian của mình để “làm thay” kẻ khống chế mình.
·         Kẻ khống chế luôn áp đặt nạn nhân vào các tình trạng: “bất khả kháng”, “chẳng đặng đừng”, “không làm khác được” để ép nạn nhân của nó ở thế “lép vế”, mà chủ ý của kẻ thống trị là diệt: tự tin suy nghĩ, tự lập tư duy, tự chủ quyết định của nạn nhân.
·         Kẻ khống chế áp đặt nạn nhân cho nó quyền sử dụng bạo động của kẻ mạnh để ức chế nạn nhân; chính bạo lực này là bạo động của bạo quyền đè lâu dài trên số kiếp của nạn nhân.
·         Kẻ khống chế o ép nạn nhân phải chấp nhận quy luật độc quyền qua bạo quyền của kẻ khống chế, nếu cúi đầu trước đường “lưỡi bò” trên Biển Đông, thì phải khoanh tay khi Tàu tặc xây căn cứ quân sự trên Hoàng Sa và Trường Sa, rồi sau đó là quỳ gối trước Tàu khi chúng ra lịnh là không cho phép ĐCSVN để các công ty ngoại quốc khai thác dầu trên thềm lực địa của chính mình, và nhắm mắt khi Tàu thường xuyên giết hại ngư dân Việt trên biển đông.

Phân tích tâm lý kẻ khống chế: nỗi sợ của kẻ xâm lược

Khi ta nghiên cứu về 4 độc hệ là hệ chế (khống chế, kiềm chế, ức chế), hệ xâm (xâm lấn, xâm lược, xâm lăng), hệ bạo (bạoquyềnbạo lực, bạo động), hệ tà (tà quyền, tà lực, tà đạo) và hệ hoại (phá hoại, hủy hoại, di hoại), cùng lúc ta phải nghiên cứu sâu về nỗi lo, nỗi sợ của kẻ xâm lược.

Không những thông qua 3 hệ làm nền nhân phẩm của nạn nhân là hệ tự (tự tin, tự trọng, tự chủ), hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo) và hệ cảnh (bối cảnh, hoàn cảnh, thực cảnh) thuận lợi cho con đường đi tìm nhân tính của nạn nhân; mà ta phải tìm hiểu sâu hơn về tâm lý kẻ khống chế, cụ thể là nỗi lo, nỗi sợ của kẻ mang ý đồ xâm lược, vì chúng cũng “ăn không ngon, ngủ không yên” và thường “mất ăn, mất ngủ”, vì nó biết không ai sinh ra trên đời này mà chấp nhận bị xâm lăng để rồi phải làm nô lệ:

– Kẻ xâm lược luôn tìm cách thủ tiêu quá trình tự do hóa của các nạn nhân, khi họ đi tìm con đường nhân cách hóa cuộc đời của họ, đó chính là quá trình tự lập hóa, tự chủ hóa, xác nhận quyền làm người cùng lúc bản sắc văn hóa và văn minh của mình, đây là quá trình rất minh bạch đòi hỏi được đối xử công bằng, tức là ngang hàng nhau, không ai được “đè đầu ai”. Đây là chuyện làm kẻ xâm lược “ngày đêm lo lắng”, đừng nghĩ rằng nó “ăn trên ngồi trốc” rồi “vinh thân phì gia”, mà phải lý luận là nó cũng phải mất thời gian, năng lượng, tâm trí để nghĩ sâu thêm về sự can đảm dẫn tới cái bất khuất của kẻ bị trị; nhất là Việt tộc đã có thông minh, kinh nghiệm, trí tuệ trong việc diệt ngoại xâm.

– Kẻ xâm lược rất ngại nạn nhân của nó đi tìm các nguồn bảo kê khác để thay đổi quan hệ giữa người và người, nơi mà công bằng trong quan hệ được công lý bảo đảm qua pháp luật. Kẻ khống chế rất lo lắng nạn nhận của nó phát huy tính thông minh dẫn tới chủ động đi tìm các đối tác mới công bằng hơn với họ hơn trong cái thông minh được xem là văn minh nhất hiện nay là cái thông minh biết tôn trọng lẫn nhau.

– Kẻ xâm lược suồng sả trong các hệ xâm, khống, bạo, tà… mà cũng là nhà tù trong quá trình vô đạo lý vì vô giáo dục của nó, nên nó rất “bồn chồn”, có khi như “mất hồn”, trước các đồng minh mới của nạn nhân thông minh, biết khai thác nhân trí của nhân loại, bảo vệ nạn nhân vì tôn trọng nạn nhân trong nhân quyền.

– Kẻ xâm lược không những phải “lo ra” trước các đồng minh mới văn minh hơn nó của nạn nhân, mà nó “càng sống càng lo”trước công pháp quốc tế ngày càng công bằng, không chấp nhận mãi cảnh “cá lớn nuốt cá bé”, chỉ vì quy luật man rợ này không phải là pháp luật công minh. Công pháp quốc tế văn minh hiện nay yêu qúy dân chủ, trân trọng nhân quyền. Đây chính là lối thoát của Việt Nam hiện nay, trên con đường tìm tới sự thông minh tôn trọng lẫn nhau từ trong ra ngoài không gian của Liên Hiệp Quốc.

– Kẻ xâm lược biết rất rõ, hiểu rất kỹ là “không ai muốn sống chung với nó” để bị nó “đè đầu, đè cổ”, cụ thể là ai cũng muốn “xa Tàu”, “tránh Tàu” (mà ông bà ta có khi nói nhanh là như “tránh quỷ”), còn ta trong lịch sự ngoại giao thì phải nói cho rõ là muốn: “thoát Trung”.
– Kẻ xâm lược thấu rất rành mạch cái khác biệt giữa các đạo lý của mỗi dân tộc, tạo nên không những nhân sinh quan, mà cả thế giới quan và vũ trụ quan của mỗi nền văn hóa, của mỗi gốc giáo dục cộng đồng. Đây là câu chuyện rất cụ thể giữa Tàu và Ta, vì hai đạo lý sống của hai dân tộc rất khác nhau, đối với Tàu là “bình thiên hạ” nhưng thực chất là “nuốt thiên hạ”; còn đạo lý tổ tiên ta là phải“biết người biết ta” để biết “ăn ở có hậu”vì hiểu được thế nào là“thương người như thể thương thân”.

– Kẻ xâm lược nghĩ rất sâu về lòng yêu đất nước, tình yêu quê hương của nạn nhân, ngay cả trong tâm tư của các lãnh đạo đã có lần “lầm đường, lạc lối” trong ma đạo mà tạm thời cam tâm “bán nước”, nhưng họ có thể trở về với dân tộc họ, đồng bào họ bất cứ lúc nào. Có thể đó là trường hợp của Lê Duẩn được Tàu dựng lên để dẹp Võ Nguyên Giáp lẫn Hồ Chí Minh, nhưng khi thấy đất nước đang rơi vào quy trình Tàu họa-Tàu nạn-Tàu hoại thì công khai ra mặt chống Tàu, còn lập cả một quy trình đưa các người gốc Hoa ra khỏi đất Việt sau năm 1979.

– Kẻ xâm lược thường “bất an”, và “ăn ngủ thất thường” vì hệ nổi (nổi lên, nổi loạn, nổi dậy) của dân tộc đang là nạn nhân trực tiếp của chúng, hệ nổi luôn kéo theo hệ bật (bật lên, bật mồi, bật lửa) với tinh thần bất khuất không để mất quê hương và không muốn làm nô lệ. Đây là hằng số trong bản sắc Việt yêu độc lập dân tộc như yêu chính nhân phẩm của mình.

– Kẻ xâm lược thường “ngày đêm lo lắng” về biến chuyển của thế giới trong toàn cầu hóa hiện nay, lấy công bằng làm công pháp, lấy nhân trí làm nhân lý, không để chuyện “có tiền mua tiên cũng được” đè lấp nhân phẩm, nhân tri. Bon tham nhũng sẵn sàng bán nước cứ tưởng cái gì trên đời này cũng có thể mua được bằng tiền, thì chúng sẽ thấy chuyện nhãn tiền là cầm tiền tham ô trên tay rồi mà “vẫn nuốt không trôi”, vì công lý của công pháp rất hiện hành!

– Kẻ xâm lược luôn tìm “thuốc an thần” trước các làn sóng tôn vinh dân chủ để bảo vệ nhân quyền, luôn dựa trên hệ đa (đa tài, đa năng, đa hiều, đa trí) có gốc, rễ, cội, nguồn trong đa nguyên đang đi mạnh tới để kết liễu tính xâm lược mọi rợ của nó, và truy diệt nó ngay trên đất Trung Hoa của nó với dân tộc Hoa có thông minh, vì là con cháu của Mạnh Tử: “biết đục thủng thuyền khi kẻ lãnh đạo cầm lái bạo ngược và độc ác!”.

– Kẻ xâm lược luôn dùng xảo thuật khống chế giấu sự thật về nó: không cho nạn nhân biết hết sự thật về khuyết điểm, khuyết tật của mình, nó tránh nói câu “nhân bất thập toàn”, nó tránh tuyệt đối nói “Thưa ông! Tôi ở bụi này”, nó tránh trong tuyệt mật về sự thật “lòng tham không đáy” của nó. Nó lo lắng là nạn nhân của nó đã là kẻ “đi guốc trong bụng của nó”, vì cũng khôn ngoan như nó.

– Kẻ xâm lược luôn sống với tâm lý đi tra hỏi trong đối thoại, hạch hỏi trong đàm phán, tra khảo trong đàm đạo với nạn nhân về hệ thuần (thuần phục, thuần hóa, thuần tuân) của nạn nhân, cùng lúc biết rất rõ là nạn nhân không bao giờ muốn rơi vào hệ độc (độc chủ, độc tôn, độc quyền) để chịu làm nô lệ vỉnh viễn.

Phân tích tâm lý chính trị về tà dạng của bọn bán nước

Khi nghiên cứu để phân tích tâm lý kẻ khống chế, cụ thể là về nỗi lo, nỗi sợ của kẻ xâm lược, thì không thể không tìm hiểu về tà dạng của bọn bán nước, để thấu rõ tại sao lại có “cặp bài trùng cướp nước-bán nước”. Chúng ta có ba tác giả giúp ta nhập nội vào không gian và thời gian của loại“cặp bài trùng cướp nước-bán nước”này:

·         Chủ thuyết thống trị của Bourdieu trong đó kẻ xâm lược có 3 loại vốn chính để biến thành chục, thành trăm loại vốn khống chế khác, để ức chế nạn nhân của chúng:
– vốn nổi: kinh tế, tài chính, vật chất,
– vốn áp đảo: chính trị, ngoại giao, quân đội,
– vốn lan tỏa: văn hóa, xã hội, giáo dục.

·         Chủ thuyết kiềm hãm Foucault qua áp chế để áp đảo:
– áp đặt từ trên cao ép xuống,
– trùm phủ toàn bộ đời sống xã hội,
– bao lấp mọi quan hệ xã hội.

·         Chủ thuyết bất bình đẳng của Passeron dùng khống chế để xâm lược:
– kẻ khống chế từ chối quan hệ ngang hàng để tránh đối thoại trực diện,
– kẻ khống chế áp chế quan hệ vừa cao, vừa chéo để kiểm tra nạn nhân,
– kẻ khống chế áp đặt quan hệ qua sức mạnh đơn phương của nó.

Mà hai thí dụ sau đây sẽ minh chứng cho các luận thuyết này: Tàu xây các trung tâm nguyên tử cận kề đất nước Việt, trong khi đó Tàu cấm chính quyền ĐCSVN cho khai thác dầu ngay trên thềm lục địa của người Việt. Khi các định đề giãi luận này có chứng cứ thuyết phục, thì ta sẽ thấy bọn bán nước có không ít trong không gian lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN, hãy xem lại hai dữ kiện lịch sử, một cận đại, một hiện nay:

·         Mật nghị thành đô 1990, bọn lãnh đạo ký vào văn bản là chỉ muốn cứu đảng chớ không muốn cứu nước hoặc cứu dân,chuyện “nước mất nhà tan” không phải là ưu tiên trong thỏa thuận, cho nên chúng không dám công khai văn bản này.
·         Tháng 6 năm 2018 này, Bộ Chính trị quyết và Quốc hội bầy biện chuyện “bấm nút bỏ phiếu” chuẩn bị nhượng quyền 99 năm (4 thế hệ) trong 3 đặc khu (Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc) mà kẻ tới thao túng từ khai thác tới di dân, từ lũng đoạn tới xâm lược sẽ chính là Tàu tặc.

Các chỉ báo để nhận diện bọn bán nước:

·         Chúng sợ Tàu và mở cửa cho Tàu vào đất Việt như chốn không người.
·         Chúng sợ Tàu và luôn tổ chức các đặc quyền, đặc lợi, đặc khu cho Tàu.
·         Chúng theo Tàu và giấu mặt nhưng luôn tạo ra các chính sách nhượng bộ Tàu.
·         Chúng theo Tàu và luôn qua lại với Tàu để ký các hợp tác lấy Tàu làm chủ, cho Tàu đóng vai chính trong kịch bản của thỏa ước.
·         Chúng cần Tàu để được yên và tạo điều kiện cho chúng tự tham quyền qua tham nhũng.
·         Chúng cần Tàu để ủng hộ chúng trong các cuộc thanh trừng nội bộ, để diệt những ai chống chúng và chống Tàu.
·         Chúng tuân lịnh Tàu để “vinh thân phì gia” để được yên thân trong cuộc đời “sâu dân mọt nước” của chúng.
·         Chúng tuân lịnh Tàu để giữ tất cả các ưu đãi, ưu tiên, để chúng được ưu hậu, bỏ chạy theo chủ Tàu, khi Việt tộc nổi lên lật đổ chúng.
·         Chúng đi nước đôi: có tiền của nhờ Tàu và nhờ tham quyền-tham ô-tham nhũng
·         Chúng chạy nước đôi: chuyển tiền của ra ngoại quốc, rồi đưa gia đình và con cái ra trước nước ngoài, để dễ nhanh “cao bay xa chạy” khi Việt tộc vùng lên lấy lại độc lập cho nhân phẩm của họ.

Đạo lý Việt và bản sắc Việt là nhân phẩm Việt

Đạo lý hay, đẹp, tốt, lành là đúng nhưng phải hiểu tâm địa của Tàu để cái đúng trở thành cái thông minh: ta muốn “dĩ hòa vi quý” nhưng không muốn “dĩ hòa vi nhục”; ta mong “một điều nhịn chín điều lành” nhưng ta cũng biết “đánh trận đầu cho xát xơ ngạc, đánh trận sau cho tan tác chim muông”. Ta hiểu“tránh voi có mất mặt nào”, nhưng ta cũng biết tát vào mặt voi khi nó đe dọa ta, dân tộc ta; chọc thủng mắt nó khi nó hăm he dòm ngó để xâm lăng đất nước ta; chặt chân nó khi nó tính chuyện giày xéo quê cha đất tổ của ta.

Chúng ta biết “ngoại giao kiểu đu dây”, nhưng chúng ta không cho Tàu đu dây trên đầu chúng ta; còn bọn suốt ngày “cúi đầu đu dây” mà câm họng khi nó chiếm biển đảo của ta, im miệng khi nó lấy đất của ta ngay biên giới phía Bắc, chúng đừng lãnh đạo nữa, vì chúng còn thì còn các mật nghị Thành Đô khác sẽ ra đời. Tàu ngày ngày giết ngư dân ta, mà ĐSCVN lại “ngụy ngôn” là: tầu lạ, kẻ lạ… Thật khốn kiếp cho Việt tộc!

Chúng ta hãy sẵn sàng đạp cho té bất cứ ai đang đu dây trên đầu Việt tộc. Thấy tới nơi để hiểu tới chốn Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoại để biết phải làm gì: mỗi chuyện trên đời đều có cái giá của nó, mà cái vô giá là toàn vẹn lãnh thổ luôn song hành cùng độc lập dân tộc, trong đó nhân Việt  nhân tính Việt, nhân phẩm Việt, còn cái giá vô danh giá là cúi đầu-khoanh tay-quỳ gối: đó là cái giá đã bị điếm nhục hóa.

***

Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các bạn có thể tìm hiểu thêm các lập luận qua nghiên cứu của VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa) qua www.facebook.com/vungkhaluan/
____

Mời đọc lại các bài khác của tác giả: 







No comments:

Post a Comment