28-4-2018
XIN
LƯU Ý – Đây chỉ là những gì mà ký ức còn ghi nhận được của một “người trong cuộc”
sau 43 năm tang thương biến đổi, viết để các bạn đọc cho vui và có những cảm nhận
cho riêng mình. Xin tuyệt đối không đưa ra những bình luận có tính cực đoan nhắm
vào chính quyền hay chế độ hiện hành.
Trân
trọng!
***
Chưa
chi mà đã 43 năm rồi! Với những bạn FB dưới 50 tuổi, chắc ấn tượng về ngày
30.4.1975, các bạn chỉ có thể nghe qua lời kể của cha anh. Nhiều người 70, 80
trở lên, trí nhớ cũng đã thui chột dần. Thôi thì còn nhớ gì kể nấy, như những hồi
ức vụn vặt về một thời điểm đáng nhớ trong đời của hàng triệu người trên đất nước
này.
Không
lâu sau ngày 30.4.1975, việc đầu tiên mà “ngụy quân, ngụy quyền” kéo nhau đi thực
hiện là “trình diện đăng ký” với Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định,
chủ tịch là Thượng tướng Trần Văn Trà, người ký trên giấy đăng ký là ông Cao
Đăng Chiếm, Phó chủ tịch Ủy ban. Lúc bấy giờ giấy chứng nhận đăng ký trình diện
là một thứ “giấy thông hành” của thành phần đặc biệt này, đi đâu cũng phải thủ
nó trong túi. Trong vòng tháng 5, các hạ sĩ quan và binh sĩ phe thua cuộc được
tham gia các buổi học chính trị tại chỗ kéo dài 3 hoặc 7 ngày. Mãi đến thượng
tuần tháng 6, người ta mới kịp nói đến những thành phần cao cấp hơn: viên chức
chính quyền từ Phó Ty, Phó Quận đến Phó Tổng thống, dân biểu, nghị sĩ, thẩm
phán; đảng viên các đảng phái từ Phó bí thư Quận Huyện trở lên, viên chức trung
ương tình báo từ trung cấp trở lên, và sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên. Một
trong những điều khoản ghi rõ trong thông cáo kêu gọi trình diện “học tập cải tạo”
là “mang theo tiền bạc và đồ dùng đủ sử dụng trong một tháng”. 95% đối tượng
HTCT đã “thất thủ” vì điều khoản này. Ai cũng nghĩ bụng, hạ sĩ quan, binh sĩ học
tập tại chổ trong 3 ngày thì mình học 30 ngày, gấp 10 lần, cũng đã thỏa đáng lắm
rồi, thôi thì ráng đi một tháng, có cái giấy chứng nhận lộn lưng, trở về tiếp tục
cuộc mưu sinh nuôi gia đình. Thời gian trình diện trong ba ngày 13,14 và
15.6.1975; ngày 13 và 14 tại trường trung học Gia Long; ngày 15 tại trường
Trưng Vương. Ác một cái: ngày 13 là thứ sáu, dân Công giáo kỵ; ngày 14 lại là
mùng 5 âm lịch (mùng 5, mười bốn, hăm ba), dân Phật giáo ngại …Vì thế số người
trình diện trong hai ngày này không nhiều, họ dồn hết vào ngày chủ nhựt 15.6 tại
trường Trưng Vương. Sáng hôm ấy, mới 8g mà người trình diện “nhập học” đã xếp
hàng rồng rắn từ cửa Sở Thú, đầu đường Thống Nhất (Lê Duẩn), đến đường Hồng Thập
Tự (Nguyễn Thị Minh Khai). Đám đông mỗi lần chỉ được “nhập trường” 5 – 6 người,
nên dòng người rồng rắn mỗi lúc một dài hơn. Những người đứng đầu hàng đang
ngóng chờ đến lượt mình thì bỗng xuất hiện một đám đông khoảng chục người lố nhố,
chạy đến, tíu ta tíu tít đưa cho mấy anh cán bộ phụ trách một tờ giấy gì đó. Hỏi
kỹ thì mới biết đó là đám dân biểu, nghị sĩ xuất trình tờ giấy giới thiệu của
ban Quân quản Quốc Hội đề nghị cho họ ưu tiên đi … ở tù. Thế là la ó, phản đối,
rối beng trật tự khiến hai anh cảnh vệ đứng gần đó phải nổ súng chỉ thiên, lá
me rơi tơi tả trên đầu, trên vai đám “sĩ tử” một cách rất ư là … lãng mạn. Xa
trường học lâu rồi, sao mà họ nôn nóng được đi học đến thế. Có chị giữ chức vụ
Chánh sở ở Bộ Xã Hội, không thuộc tiêu chuẩn đi học tập, thất vọng ra mặt, cứ gặp
hết cán bộ này đến cán bộ khác, xin được nhập trường. Cuối cùng, chị được thỏa
mãn nguyện vọng, gương mặt giãn ra, hớn hở.
Quên kể một chi tiết: theo thông cáo đi học tập, các học viên phải đóng tiền ăn một tháng hơn 10 ngàn đồng, và ngay bữa ăn đầu tiên tại trường Trưng Vương, thức ăn được nhà hàng (Đồng Khánh hay Á Đông gì đó) mang đến. Một bữa ăn giá vài trăm đồng lúc ấy sang lắm!
Quên kể một chi tiết: theo thông cáo đi học tập, các học viên phải đóng tiền ăn một tháng hơn 10 ngàn đồng, và ngay bữa ăn đầu tiên tại trường Trưng Vương, thức ăn được nhà hàng (Đồng Khánh hay Á Đông gì đó) mang đến. Một bữa ăn giá vài trăm đồng lúc ấy sang lắm!
Nhưng
chúng tôi không ở lại trường Trưng Vương lâu. Đêm hôm đó, lúc gần 11g, tất cả
được lệnh mang hết đồ đạc ra ngồi ở sân trường. Không lâu sau, chúng tôi được
đưa lên những chiếc GMC bít bùng, chạy quanh co giữa một thành phố ngủ im lìm
như chết. Trời tối đen, chúng tôi nhìn qua những lỗ thủng nhỏ trên tấm bạt, đoán
là xe chạy về hướng Vũng Tàu. Không lâu sau, xe rẽ trái, chạy lên một vùng đất
hơi cao, có vẻ như một ngọn đồi nhỏ, rồi dừng lại. Khi xuống xe, nhiều người
trong chúng tôi nhận ra đó là Làng cô nhi Long Thành, từng là một trung tâm
nuôi dưỡng cô nhi nổi tiếng, hàng tuần, vào mỗi chủ nhật, số người giàu thiện
tâm đổ xô lên đó để thăm viếng, giúp đỡ vô cùng đông đúc. Sau này mới biết người
điều hành làng cô nhi này có bí danh Tư Sự, đã hoạt động cho MTGP từ trước ngày
30.4.
Hôm
15.6 ấy, vì số người được nhận vào đã đủ so với dự kiến, nhiều người xếp hàng
phía sau không được “nhập trường”,. Họ thất vọng trở về và hầu hết những người
này bị hốt ngay trong đêm ấy. Thành phần “nửa nạc nửa mỡ” đeo băng đỏ đông như
quân Nguyên lúc đó, lập công đi trình báo với chính quyền là số người này trốn
HTCT, và thế là họ bị hốt đi, giam cả vào khám Chí Hòa. Sáng hôm sau họ mới được
thả ra sau khi người ta phối hợp biết nguyên nhân vì sao họ phải trở về. Họ chờ
trình diện những đợt sau.
Khi
chúng tôi lên tới, làng cô nhi Long Thành trống vắng, tiêu điều, chỉ có một
hàng rào kẽm gai vây quanh. Nó trở thành ”Trại HTCT 16 NV” (NV: Nội vụ, vì trại
này thuộc quyền quản lý trực tiếp của Cục quản lý trại giam Bộ Nội vụ, để phân
biệt với các trại do địa phương quản lý) lúc ấy chứa khoảng 3.000 người, được
chia thành 4 khối:
–
Khối 1 gồm công chức từ Phó Ty, Phó Quận trở lên, dân biều, nghị sĩ, thẩm phán
(chánh án, biện lý, phó biện lý, dự thẩm).
–
Khối 2 gồm các đảng viên đảng phái phản động (tất nhiên trừ đảng Lao Động) chức
vụ từ Phó bí thư quận huyện trở lên (đảng Dân Chủ, VNQDĐ, đảng Đại Việt, đảng Cấp
Tiến…).
–
Khối 3 gồm các viên chức Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo từ trung cấp trở lên.
–
Khối 4 gồm sĩ quan cảnh sát từ cấp Thiếu tá trở lên.
Tất
nhiên khối 1 là hùng hậu nhất, nhiều người từng là Tổng, Bộ trưởng, Thứ trưởng,
Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Tối cao Pháp viện, từng ngồi ghế chánh án các tòa án
tỉnh (thời đó tòa án chỉ đến cấp tỉnh, không đến cấp quận như bây giờ). Trong
khối 2 (đảng phái) có một nhân vật lừng lẫy trong kháng chiến chống Pháp, đó là
cụ Vũ Hồng Khanh, nguyên thủ lãnh VNQDĐ, từng tham gia chính phủ liên hiệp
kháng chiến năm 1946. Còn nhớ khá rõ hình ảnh cụ Vũ Hồng Khanh lúc ấy rất tiên
phong đạo cốt. Tóc cụ bạc gần hết, để “củ nừng” phía sau, gương mặt cụ phương
phi, hồng hào, chiều chiều cụ hòa theo dòng chảy của mấy ngàn người đi bách bộ
trên con đường mà chúng tôi gọi vui là “đại lộ hoàng hôn”. Cụ lầm lũi đi, không
nhìn quanh nhìn quất, đầu hơi cúi về phía trước, hai bàn tay chắp lại sau mông.
Khối
2 còn có luật sư Nguyễn Lâm Sanh, Phó chủ tịch Liên minh Á châu chống Cộng (chủ
tịch là cựu Thủ tướng Phan Huy Quát), nghe đâu là người từng mở chung văn phòng
luật sư với ông Nguyễn Hữu Thọ trước khi ông Thọ vào khu. Ở khối ba mới có chuyện
hài, thông cáo đi học gồm những viên chức tình báo trung cấp trở lên, mà thời
VNCH, thơ ký đánh máy (ngạch B3) đã được xếp vào công chức trung cấp, hạng B (hạng
C là tùy phái, hạng D là lao công), báo hại các cô thư ký đánh máy của Phủ Đặc ủy
Trung ương Tình báo đều đi trình diện tất, ở chung trong một nhà chứa khoảng
300 người, chung với phụ nữ thuộc các thành phần khác (dân biều, nghị sĩ, thẩm
phán…). Mãi đến hơn 6 tháng sau, người ta mới có dịp truy xét và nhận ra rằng
các cô này chỉ là … thơ ký đánh máy nên cho họ về trong một buổi sáng thật đông
vui, náo nhiệt.
Sau
khi đã ở đây gần hết một tháng, ai cũng nuôi hi vọng sớm trở về. Nhưng có những
dấu hiệu “khó hiểu” xuất hiện. Người ta bắt đầu cho dựng lên căng-tin, bố trí
phòng hớt tóc … để làm gì nhỉ? Vậy mà điều đó vẫn không ngăn cản nhiều học viên
(khi đó, chúng tôi chưa bị gọi là “trại viên”) hàng đêm đóng sẵn va li, chờ
đoàn xe từ Sài Gòn lên rước về, giữa đêm hôm khuya khoắt, như lúc ra đi. Chúng
tôi đang ở trên một cao điểm nên đêm đêm, những ánh đèn pha của đoàn xe từ hướng
Biên Hòa ra Vũng Tàu đủ khiến cho bao nhiêu trái tim rộn lên niềm hi vọng, để rồi
thất vọng triền miên. Trong số những nhân vật chuẩn bị sẵn hành lý, chờ đợi và
hi vọng đó, có cả một vị từng ở top 5, top 6 của lãnh đạo chế độ VNCH trước
1975!
Thế
rồi, chúng tôi cũng không phải chờ đợi lâu. Sau khi hết một tháng, tất cả học
viên được tập trung thông báo là “kể từ tháng thứ hai, chính quyền cách mạng sẽ
đài thọ tiền ăn cho các anh chị”. Cú sốc khá nặng, một nữ thẩm phán là chị Phù
T.H. đang mang cái bụng thè lẻ, bật khóc nức nở. May mà chỉ 1-2 tháng sau, chị
được về, nếu không, chẳng biết sự thể sẽ ra sao.
CUỘC GẶP GỠ VỚI TRƯỞNG
TY CÔNG CHÁNH PHƯỚC LONG
Buổi
sáng đầu tiên khi chúng tôi vừa đến trại Long Thành, một chiếc xe GMC chở tới
khoảng 5-6 người trung niên gầy ốm, mình chỉ mặc độc chiếc quần đùi. Họ được thả
xuống và làm cái việc đào một số hố xí cho chúng tôi ngay sát cạnh hàng rào kẽm
gai của trại. Chúng tôi tò mò ra đứng xem, không được đến gần họ, nhưng nhìn rõ
mặt nhau và nói to thì có thể nghe nhau được. Bỗng nhiên có người trong nhóm
chúng tôi nhận ra một trong những người mặc quần đùi nhếch nhác đó là anh Trưởng
ty Công chánh Phước Long. Như vậy, có thể đoán là anh ta bị bắt làm tù binh vào
tháng 1.1975, khi quân đội miền Bắc tấn công và chiếm đóng vĩnh viễn tỉnh này.
Anh Trưởng ty Công chánh cũng nhận ra người quen trong đám chúng tôi, anh nhìn
về hướng chúng tôi, rồi chỉ vào cái quần đùi và cái bụng nhễ nhại mổ hôi của
mình: “rồi tụi bây cũng như tao vầy thôi”. Nghe như thế, nhưng hầu như chẳng ai
trong chúng tôi tin lời anh ta. Tụi tôi đang ăn trắng mặc trơn, cơm canh đang
được các nhà hàng Đồng Khánh, Á Đông mang đến tận miệng mà, sao có chuyện quần
đùi trần trụi như bọn họ được. Để rồi phải chờ đến 1, 2 năm sau, lời cảnh báo của
anh Trưởng ty Công chánh Phước Long mới được hiện thực hóa dần, hiện thực hóa dần
…
TỪ CHÁNH SỞ LÊN LÀM
PHÓ THỦ TƯỚNG TRONG CHƯA ĐẦY MỘT NĂM!
Anh
B. là Chánh sự vụ một sở thuộc Bộ X. Chức vụ này xếp trên Chủ sự phòng (Trưởng
phòng) và Trưởng ban, dưới Giám đốc và Tổng Giám đốc. Bữa trưa nọ, anh về ăn
trưa, giữa bữa ăn, chị vợ đợi lúc anh vui, mở lời:
–
Anh à, sáng nay em đi coi ông thầy bói rất nổi tiếng, nói đâu trúng đó, nhất là
chuyện tương lai, hậu vận.
–
Em lại mê tín, rồi sao?
–
Anh à, ông ấy phán anh sắp làm … Phó Thủ tướng!
Ông
Chánh sở dằn chén cơm xuống mâm một cái rầm, quắc mắt nhìn cô vợ:
–
Ông thầy bói này khùng mà em tin sao? Tôi bây giờ mới là Chánh Sở mà bảo tôi sắp
làm Phó Thủ tướng trời ạ!
Chị
vợ sợ quá, im thin thít, không dám nhắc tới chuyện này nữa.
Tháng
6.1975, vào trại Long Thành, ngẫu nhiên anh Chánh Sở này được phân công làm Nhà
trưởng, quản lý gần 300 học viên. Trưa nọ, đang ngồi nói chuyện khào với bạn
bè, anh ta vỗ đùi đánh đét một cái:
–
Trời ạ, tao ân hận quá! tao chửi oan ông thầy bói, ổng đoán tao sắp làm Phó Thủ
tướng, đúng quá, tao đang quản lý cả chục ông Bộ trưởng và Thứ trưởng tại nhà
này, tao không là Phó Thủ tướng thì là gì?
(Còn
tiếp)
*
*
30-4-2018
XIN
LƯU Ý – Đây chỉ là vài ký ức vụn vặt, góp thêm mấy nét chấm phá trong bức tranh
xã hội những năm tháng sau 30.4.1975. Xin nhắc lại đề nghị không đưa ra những
bình luận cực đoan nhắm vào chính quyền hay chế độ hiện hành.
***
CUỘC
GẶP LẠI CỦA HAI “CỐ NHÂN”
Lúc
ấy, trại CT Long Thành có 13 ngôi nhà dài, mỗi nhà chứa khoảng 300 người, được
ngăn thành 4 hay 5 phòng, thông với nhau bằng một ô cửa trống. Nhiều nhân vật
“sừng sõ” của chế độ VNCH được phân bố rải rác ở các nhà. Ngôi nhà 2 nơi tôi ở
còn có tên A14, có những gương mặt quen thuộc như:
–
Ông Trần Minh Tiết, từng làm Ủy viên Nội vụ (Bộ trưởng), Chủ tịch Tối Cao Pháp
viện
–
Ông Lưu Văn Tính, từng làm Tổng Giám Đốc Ngân sách và Ngoại viện, Bộ trưởng Tài
chánh và cuối cùng là Cố vấn tài chánh tại Phủ Tổng thống.
–
Ông Nguyễn Đình Xướng, Tỉnh trưởng Vĩnh Bình thời Ngô Đình Diệm, Tổng Thơ ký Bộ
Nội vụ, Tổng Quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống.
–
KTS Ngô Viết Thụ, giải Khôi nguyên La Mã, người tái thiết Dinh Độc lập.
–
và một người là nhân vật chính của câu chuyện này: ông Nguyễn Xuân Phong. Ông
Phong sống ở Pháp khá lâu, tháng cuối cùng của chế độ VNCH, ông bay về Sài Gòn
đảm nhận chức vụ Quốc vụ khanh đặc trách Ngoại giao của chính phủ Nguyễn Bá Cẩn
và kẹt lại sau 30.4. Ông được biết đến nhiều với vai trò Trưởng phái đoàn hòa
đàm Paris của chính phủ VNCH, tham gia đàm phán với phái đoàn miền Bắc do ông
Xuân Thủy đứng đầu và phái đoàn CPCMLT CHMNVN của bà Nguyễn Thị Bình. (Cố vấn
chỉ đạo phái đoàn Mỹ là Henry Kissinger, của phái đoàn VNCH là Tổng trưởng Ngoại
giao Phạm Đăng Lâm, của phái đoàn VNDCCH là ông Lê Đức Thọ).
Tại
nhà 2 trại Long Thành, ông Phong ở chung một đội với tôi. Nước da ông ngăm đen,
mũi cao, tính rất hiền hòa, ít nói, anh em ai cũng quý mến ông. Sau khi chúng
tôi ở với nhau được khoảng 2 tháng, buổi trưa nọ, bỗng nhiên có lệnh bất ngờ: tất
cả vào nhà hết, không ai được đi ngoài sân. Lúc đó cứ giữa hai dãy nhà dài thì
có một khoảng sân rộng độ 8 mét. Mọi người tuân thủ lệnh cấm, song hồi hộp lắm,
tập trung trước các ô cửa sổ to nhìn ra sân, xem động tĩnh gì. Được khoảng 20
phút thì thấy đầu sân xuất hiện khoảng 5-6 người, một người thấp lùn, trán hơi
hói cắm cúi đi trước, những người kia khép nép theo sau. Khi họ đi đến gần tầm
mắt, chúng tôi chợt nhận ra người đi đầu là ông … Xuân Thủy, từng là trưởng
phái đoàn miền Bắc đàm phán với phía VNCH mà đại diện là ông Nguyễn Xuân Phong.
Khi những người này vừa đi khuất tầm mắt, tôi đưa mắt liếc sang ông Phong đang
đứng cạnh mình. Ông ở trần, chống hai tay lên hông, gương mặt bình thản đến lạnh
lùng. Vậy mà cái hình ảnh lạnh lùng ấy cứ ám ảnh tôi một thời gian dài mỗi khi
nhớ đến ông Nguyễn Xuân Phong.
Mới
đây, đọc tin trên mạng, được biết ông Phong đã qua đời ngày 29.7.2017 tại bang
Florida, Hoa Kỳ. Theo người viết bản tin về sự ra đi của ông thì “sau khi định
cư tại Hoa Kỳ ông sống một cuộc đời ẩn dật. Ông từ chối tất cả những cuộc phỏng
vấn và đề nghị viết hồi ký. Ông sống rất đạm bạc và khó khăn lúc cuối đời”. Những
lời mô tả này rất phù hợp với nhân cách Nguyễn Xuân Phong trong thời gian là bạn
tù của chúng tôi tại trại CT Long Thành.
TẤM
LÒNG NGƯỜI DÂN MIỀN NAM ĐỐI VỚI KẺ NGÃ NGỰA
Tại
trại Long Thành, trong năm đầu tiên, chúng tôi chưa là … tù, còn được gọi là “học
viên”, gọi các cán bộ trại là “anh”, chứ chưa là “cán bộ”. Mãi đến một năm sau
(1976), hồ sơ của chúng tôi mới được thanh lọc kỹ, ai “không có tội” hay “tội
nhẹ” thì được về, đa số còn ở lại được long trọng công bố một quyết định “tập
trung cải tạo ba năm”. Trong quyết định có nêu rõ một điều khoản: ai học tập tốt,
lập công chuộc tội thì được tha về trước ba năm, ai còn ngoan cố, không chịu cải
tạo thì sẽ phải thụ hình thêm nữa. Trong ba năm đó, lập công thì chả biết công ở
đâu để lập, còn ngoan cố, chống đối thì bố bảo cũng không dám, chúng tôi cứ
nhũn như con chi chi, bảo gì làm nấy. Vậy mà sau khi hết hạn ba năm (1978),
không khí vẫn im lặng như tờ, cũng không có một quyết định nào khác về số phận
của chúng tôi. Một vài lần họp trại, chúng tôi có rón rén nhắc lại tinh thần của
quyết định “tập trung cải tạo ba năm” thì được giải thích đại khái ngoài xã hội
còn rất phức tạp, nhân dân còn rất căm thù chúng tôi, vì thế về lúc bấy giờ sẽ
rất nguy hiểm cho chúng tôi. Chúng tôi tin rằng đó là một lời giải thích có
tình, có lý, vì lúc ấy, chúng tôi còn ở trong trại giam, được bảo vệ nghiêm ngặt
như thế, mà “nhân dân căm thù” cũng đã ném tới tấp nào đậu hũ, nào hủ tiếu, nào
thuốc lá, vào người chúng tôi rồi.
*
Trong bốn năm còn ở trại CT Long Thành, một trong những việc mà chúng tôi vẫn
làm thường xuyên là được chở xuống thị trấn Biên Hòa, khiêng vác gạch xây dựng,
xi măng mang về làm hàng rào kiên cố bao quanh trại. Công việc cực nhọc đối với
lũ “chân yếu tay mềm” chúng tôi, song đây là những dịp mà chúng tôi vẫn mong muốn
xảy ra thường xuyên. Vì cứ mỗi lần như thế, bạn tù bu lại nhờ mua đậu hũ chiên ở
chợ Biên Hòa. Món này xắt ra từng miếng nhỏ rồi kho lên là thức ăn tuyệt vời nhất
của người tù.
Bữa nọ, chúng tôi chất gạch cát, xi măng lên xe xong, như mọi lần, xin với cán bộ áp giải (một súng ngắn, một súng dài) cho vào chợ Biên Hòa mua đậu hũ. Ghé lại một bà cụ bán hàng, mua xong, chúng tôi trả tiền rồi bước đi. Được chừng mươi thước, chúng tôi bỗng nghe tiếng kêu to của bà cụ bán hàng:
Bữa nọ, chúng tôi chất gạch cát, xi măng lên xe xong, như mọi lần, xin với cán bộ áp giải (một súng ngắn, một súng dài) cho vào chợ Biên Hòa mua đậu hũ. Ghé lại một bà cụ bán hàng, mua xong, chúng tôi trả tiền rồi bước đi. Được chừng mươi thước, chúng tôi bỗng nghe tiếng kêu to của bà cụ bán hàng:
–
Mấy cậu ơi, đứng lại! đứng lại!
Chúng
tôi giật mình, quay lại, tưởng như mình vừa trả thiếu tiền cho bà cụ. Khi vừa bắt
kịp chúng tôi, bà cụ nói trong hơi thở dốc:
–
Tui cho mấy cậu tàu hũ về ăn, tui không lấy tiền đâu.
Vừa
nói, bà cụ vừa nhét những đồng tiền vo tròn vào tay chúng tôi. Không tiện dẳng
co trước mặt súng ngắn, súng dài, chúng tôi cảm ơn bà cụ rồi quay gót. Trên đường
về chúng tôi đoán rằng sau khi bán đậu hũ cho chúng tôi xong, bà cụ hỏi các bạn
hàng chung quanh và lúc đó mới biết chúng tôi là tù cải tạo.
*
Một lần khác, sau khi bốc vác gạch cát xong, trên đường về lại trại Long Thành,
mấy anh em thèm hủ tiếu quá, xin xe cho ghé lại một quán hủ tiếu ven đường. Khi
chúng tôi ăn gần xong, anh chủ quán đến gần, nói nhỏ:
–
Các anh ăn xong rồi đi đi, có người trả tiền cho các anh rồi.
Cũng
như với bà cụ bán đậu hũ, chúng tôi không tiện dang ca với anh chủ quán, chỉ biết
kín đáo nhìn anh bằng cặp mắt hàm ơn rồi trở ra xe. Cho đến sau này, bữa hủ tiếu
ngày hôm đó, anh chủ quán không lấy tiền hay có một “mạnh thường quân” nào
thương xót chúng tôi mà bỏ tiền ra thanh toán, chẳng ai trong chúng tôi biết cả.
*
Theo “tiêu chuẩn” lúc bấy giờ, những người có chức vụ và cấp bậc như chúng tôi
đều phải ra Bắc. Trong gần 3.000 người ở trại Long Thành, ngoài một số không
nhiều được trở về nhà sau cuộc thanh lọc hồ sơ, số đông còn lại được đưa ra Bắc
trong hai đợt, mà chúng tôi gọi là “bao bố 1” và “bao bố 2” (sẽ có dịp giải
thích mấy từ này sau). Số còn lại chờ đi “bao bố 3” chỉ còn chưa đầy 150 người.
May sao, năm 1978, Bộ Nội Vụ có nhu cầu mở một trại mới giữa rừng Xuyên Mộc thuộc
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, chúng tôi dù là tù, cũng là tù “chén kiểu”, ít có nguy cơ
bỏ trốn, nên một số người được đưa lên Xuyên Mộc lập trại mới. Trại lập xong,
giữa năm 1979, gần 150 người còn lại ở Long Thành được đưa lên trại mới Xuyên Mộc.
Thế là thoát được chuyến đi Bắc cuối cùng.
Hôm
chuyển trại, chúng tôi được đưa đi bằng phương tiện là loại xe chở … trâu bò ở
Hậu Giang. Đó là mô tả sự thật thôi, chứ thời đó, phương tiện rất khó tìm, việc
chở tù bằng loại xe nào cũng chẳng có gì đáng kinh động cả. Thời đó, xe chở
khách tư nhân thường chạy bằng than, đeo lủng lẳng một bình than cao quá đầu
người ở đuôi xe, xe chạy, than bắn tung tóe trên đường, người ngồi sau xe như ngồi
trong lò lửa. Vì thế chở tù bằng xe nào là chuyện không có gì quan trọng, điều
đáng nói là lần đầu tiên trong đời, chúng tôi biết cái còng số 8 mùi gì. Di
chuyển xa, mà mỗi xe chở tù chỉ có một cán bộ áp giải ngồi ở thùng xe phía trước,
vì thế để tránh trường hợp tù nhảy trốn trên đường di chuyển, chúng tôi được
chia sẻ với nhau cứ hai người chung một còng số 8. Một vài cụ lớn tuổi như cụ
Nguyễn Bá Lương, nguyên Chủ tịch Hạ viện, cụ Nguyễn Văn Tho, nguyên Trưởng khối
Dân tộc Thượng viện … được miễn còng tay, nhưng phải ra ngồi nơi áp sát với
cabin trước (dành cho tài xế, phụ xế và cán bộ áp giải). Hài hước nhất thuộc về
trường hợp một người bạn đồng môn của tôi là anh Huỳnh Viết V. (hiện sống ở Mỹ).
Anh V. sót lại cuối cùng, được hưởng một mình một còng số 8, và để tránh bất
an, người ta treo cánh tay đeo còng của anh lên tấm bửng đóng lại phía sau xe.
Và cánh tay này của V. trở thành lời giải thích chính xác nhất cho công chúng
hai bên đường khi đoàn xe chúng tôi chạy qua họ và nhiều người nhìn theo mà thắc
mắc chưa biết xe chở thứ gì. Có đoạn đường, chúng tôi nghe họ nói với nhau: xe
chở tù chị ơi, anh ơi …
Thời
đó, con đường đi đến vùng Xuyên Mộc thuộc tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu bụi đỏ mù mịt,
chưa đến nơi mà tóc tai, quần áo chúng tôi nhuộm đỏ cả. Xe đang chạy ngon trớn,
bỗng anh phụ xế ló đầu nhìn vào thùng xe qua một ô nhỏ giữa thùng xe với cabin,
rồi nói to:
–
Các anh xê ra cho tôi xem can xăng có đó không
Tụi
tôi nhìn quanh chẳng thấy can xăng đâu, gân cổ cãi lại với anh, song anh vẫn một
mực:
–
Có can xăng đây mà
Vừa
xong câu nói, anh quăng nhanh xuống sàn xe ba gói thuốc hút Đà Lạt, Hoa Mai. Đến
lúc đó, chúng tôi mới bật ngửa: anh phụ xe muốn cho chúng tôi thuốc hút nhưng sợ
vi phạm lệnh cấm tiếp xúc với tù, nên mới phải bày ra trò tìm kiếm cái can xăng!
Đêm hôm đó, lần đầu tiên sống giữa rừng Xuyên Mộc, chim kêu vượn hú, nhiều anh tù thấy ấm lòng với những điếu thuốc mà một người lao động nghèo như anh phụ xe ấy đã chia sẻ cho mình.
Đêm hôm đó, lần đầu tiên sống giữa rừng Xuyên Mộc, chim kêu vượn hú, nhiều anh tù thấy ấm lòng với những điếu thuốc mà một người lao động nghèo như anh phụ xe ấy đã chia sẻ cho mình.
*
NỖI ĐAU CỦA NGƯỜI TÙ ĐƯỢC TRỞ VỀ ĐÊM 30 TẾT
Anh
Phạm Văn Đ. là tù cảnh sát. Anh hơn tôi nhiều tuổi, tính tình hiền hòa nên dù mới
gặp nhau ở Xuyên Mộc, chúng tôi đã sớm trở thành những người bạn thân. Trong thời
gian anh ở tù, cô con gái, cháu Phạm Tuyết Tr., mới 17-18 tuổi, bị đau nặng.
Vào những lần gia đình lên thăm nuôi năm 1981, anh cứ hỏi con đâu, nhà trả lời
là cháu đau không lên thăm bố được. Cuối năm ấy, anh được thả về đúng đêm giao
thừa. Còn niềm vui nào hơn sự đoàn tụ vào giữa đêm giao thừa sau nhiều năm xa
cách? Tối hôm ấy, anh hí hửng xách túi bước vào nhà, mọi người bu lại. Nhìn
quanh không thấy Tr. đâu, anh Đ. gặng hỏi, vợ anh òa khóc rồi chỉ lên bàn thờ,
con gái anh đã ngồi ở đó tự bao giờ! Từ thế giới cực lạc bước vào thế giới bi
thương chỉ trong một bước chân, anh Đ. ngã khuỵu xuống giữa nhà.
Nhiều
năm qua, cả gia đình anh Đ. đã sống ở bang California, Mỹ (diện HO), ngôi mộ
cháu Tuyết Tr. ở một khu đất chùa Bình Hưng Hòa không người thân chăm sóc. Và cứ
thế, hàng năm, vào mỗi sáng mùng một tết, thương bạn, tôi lại lọ mọ lên ngôi
chùa này, cắm vào mộ cháu một bó hoa, thắp cho cháu mấy nén hương. Nhìn lên mộ
bia và hình ảnh của cháu, thấy thương lắm, cháu mất năm 1981, lúc mới 18 tuổi,
nếu còn sống, bây giờ cháu cũng đã 55 tuổi rồi!
*
ĐÊM SAY CUỐI CÙNG Ở TRẠI XUYÊN MỘC
Trại
Xuyên Mộc những năm 1978 – 198.., có nhiều thành phần tù lắm: sĩ quan cấp úy từ
các trại CT Vườn Đào (Mỹ Tho), Phước Long chuyển tới, văn nghệ sĩ vụ “Hồ Con
Rùa” 1976 (Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Đằng Giao …), tù hình sự,
tù “hiện hành” (chống phá chính quyền mới sau 30.4.1975) và viên chức dân sự
chúng tôi, 145 người từ trại Long Thành chuyển đến.
Cho
đến Tết năm 1982, trong số 145 người từ Long Thành lên, đã có 140 người được trả
tự do, chỉ còn sót lại 5 người, trong đó có tôi. Nói thế để biết rằng, trong
tù, nếu thiếu ý chí, sẽ khó trụ vững lắm. Nhưng dù có vững cách nào, chúng tôi
cũng phải “ngã” trong đêm giao thừa, là thời khắc thiêng liêng của mọi gia
đình. Tết năm Nhâm Tuất 1982 ấy, chúng tôi nhờ mấy cán bộ mua giúp được nhiều
rượu đế. Họ giúp chúng tôi việc này hoặc vì thông cảm cho cảnh nhớ nhà dịp tết
của chúng tôi, hoặc vì chút lợi lộc, hoặc cả hai thứ. Gần đến phút giao niên,
ai cũng buồn hết, có người khóc rưng rức. Có người ôm cây guitar đàn và hát nho
nhỏ một mình. Song phần lớn tìm đến rượu. Họ lặng lẽ đến những can rượu để ở
các góc nhà, rót một chén rồi mang về chỗ nằm, nốc cạn, chẳng ai mời ai cả. Rượu
ngấm dần, họ cũng lịm dần, song trước đó, còn kịp tỉnh để kê miệng lên một chiếc
thau nhỏ đặt trên giường. Họ vẫn còn biết sợ chất nôn ói vương vải trên chỗ nằm
và từ giường trên chảy xuống giường dưới. Hình ảnh đó nhớ lại thật bi hài, cứ mỗi
người gác mỏ lên một cái thau như thế trong suốt đêm trừ tịch.
Đêm
đó có một gã không quen rượu, nhưng cũng nốc một chén đầy cho đủ chếnh choáng
hơi men, song vẫn còn tỉnh để lấy tờ giấy trắng trên chỗ nằm, nguệch ngoạc mấy
dòng thơ … rác:
SAY
PHÚT GIAO THỪA
Uống
đi cho rượu cháy lòng,
Nửa đêm trừ tịch pháo hồng nổ ran,
Chập chờn giấc mộng trùng hoan,
Ngón tay rỏ máu, điệu đàn chơi vơi.
Ngoài kia thiên hạ đang vui,
Còn đây nỗi nhớ muôn đời riêng ta.
Nửa đêm trừ tịch pháo hồng nổ ran,
Chập chờn giấc mộng trùng hoan,
Ngón tay rỏ máu, điệu đàn chơi vơi.
Ngoài kia thiên hạ đang vui,
Còn đây nỗi nhớ muôn đời riêng ta.
***
Uống
đi những kẻ xa nhà,
Cho quên một thuở niên hoa ngậm ngùi.
Uống đi, nằm đó say vùi,
Men cay cháy bỏng bờ môi lạnh lùng.
Uống đi, nhạc đã vang lừng,
Sương giăng bãi vắng, núi rừng xôn xao,
Uống cho máu nóng sôi trào,
Rồi đem tâm sự gửi vào hư vô.
Uống cho lệ chảy thành thơ,
Con thuyền phiêu bạt bến bờ là đâu?
Uống cho tan tác cơn sầu,
Đêm nay thức trắng ngẩng đầu …cười vang
(Rừng Xuyên Mộc, giao thừa Xuân Nhâm Tuất 1982)
Cho quên một thuở niên hoa ngậm ngùi.
Uống đi, nằm đó say vùi,
Men cay cháy bỏng bờ môi lạnh lùng.
Uống đi, nhạc đã vang lừng,
Sương giăng bãi vắng, núi rừng xôn xao,
Uống cho máu nóng sôi trào,
Rồi đem tâm sự gửi vào hư vô.
Uống cho lệ chảy thành thơ,
Con thuyền phiêu bạt bến bờ là đâu?
Uống cho tan tác cơn sầu,
Đêm nay thức trắng ngẩng đầu …cười vang
(Rừng Xuyên Mộc, giao thừa Xuân Nhâm Tuất 1982)
Cảm
ơn các bạn, xin hẹn 30.4 năm sau nhé
No comments:
Post a Comment