Nguyễn
Quang Dy - Viet-Studies
2-1-2018
“Dân
hai nhăm triệu ai người lớn / Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con” (Trích bài “Bính thìn Xuân Cảm” của Tản Đà (1916) trong tập thơ “Khối
Tình Con”).
Với trái tim nhạy cảm của một thi sỹ lớn nặng tình với
đất nước, trong bài thơ thất ngôn bát cú cố tình viết dang dở (thiếu hai câu kết),
cụ Tản Đà đã đau lòng nhận xét về dân trí quốc gia bằng mấy vần thơ cô đọng như
lời sấm truyền. Và với bộ óc nhạy cảm của một nhân sĩ lớn có tầm nhìn xa, cụ
Phan Châu Trinh đã tâm huyết đề xuất giải pháp chấn hưng quốc gia bằng “khai
dân trí” (enlightened wisdom) và “chấn dân khí” (heightened morale).
Ngày nay các nhà khoa học gọi sự nhạy cảm đó là “trí tuệ cảm xúc” (emotional
intelligence).
Nhiệm
vụ bất khả thi
Không phải ngẫu nhiên mà tổng thống Obama đánh giá
cao tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh như một “triết lý” (philosophy) khi
ông đến thăm Việt Nam (23/5/2016). Phải chăng ông Obama muốn nói rằng tư tưởng
đó của cụ Phan Châu Trinh vẫn còn nguyên giá trị, và người Việt lúc này vẫn cần
“khai dân trí”? Cũng không phải ngẫu nhiên mà tổng thống Trump ca ngợi Hai Bà
Trưng khi ông đến thăm Việt Nam (10/11/2017). Phải chăng ông Trump cũng muốn
nói rằng người Việt đang cần “chấn dân khí”? Không biết điều đó có phải là dấu
hiệu của “Đông Tây hội ngộ” hay không, nhưng chắc chắn nó càng khẳng định những
gì các cụ Tản Đà và Phan Châu Trinh nói cách đây gần một thế kỷ đáng để hậu thế
suy ngẫm.
Một điều nữa cũng đáng suy ngẫm là vào thời Minh Trị
(Meiji era), các nhân sĩ Nhật như ông Fukuzawa Yukichi đã giúp nước Nhật khởi
nghiệp quốc gia, trở thành một đế quốc hùng mạnh khi phương Đông còn chìm đắm
trong đêm dài lạc hậu. Sau chiến tranh, giới trí thức Nhật một lần nữa lại giúp
nước Nhật bại trận chấn hưng, trở thành một cường quốc dân chủ. Người Nhật đã
làm được điều đó vì họ trọng dụng trí thức và mở cửa để học hỏi phương Tây. Người
Việt không làm được điều đó vì coi thường trí thức và đóng cửa để “bế quan tỏa
cảng” với phương Tây, mà họ chỉ coi trọng khổng giáo (nay đã thành hủ nho). Gần
đây, Việt Nam phát động “định nghĩa trí thức” thì e rằng đã quá muộn (too
little too late).
Việt Nam hiện nay có hàng chục vạn giáo sư tiến
sĩ, nhưng chắc chỉ có vài trăm người là trí thức thực sự có tư duy độc lập và
sáng tạo. Thói háo danh, thích xu nịnh và trọng bằng cấp (dù bằng giả và đạo
văn), làm nhiều người ngộ nhận mình là trí thức. Hệ quả không định trước của
chính sách cai trị độc đoán và ngu dân làm cho quan trí ngày càng thấp. Có người
gọi đó là “định luật trên dưới cùng ngu”. Dân trí thấp kéo theo mọi cái đều
thấp, dẫn đến vô cảm và vô minh, làm cho ý tưởng khai dân trí trở thành “nhiệm
vụ bất khả thi”.
Cách đây một thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh hô hào “khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như một triết lý để chấn hưng quốc gia.
Nhưng đến nay, người Việt vẫn dậm chân tại chỗ ở ngã ba đường, chưa thoát khỏi
bãi lầy ý thức hệ đã lỗi thời. Trong khi người Nhật đã khởi nghiệp quốc gia (từ
thời Minh Trị) và chấn hưng đất nước (từ sau chiến tranh thế giới hai) thì người
Việt vẫn loay hoay “định nghĩa trí thức”. Trong khi người ta hô hào “công nghệ
4.0”, thì các quan cũng như dân vẫn còn đồng bóng, tin vào bói toán và cúng
bái, cầu xin người chết thuộc thế giới âm làm thay việc của người sống ở thế giới
dương (như “xin cho”).
Khai
dân trí thế nào
Khai dân trí được hiểu
là mở cửa trí tuệ để đưa dân trí từ chỗ tối ra chỗ sáng, như một
cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa, nhằm giải phóng trí tuệ con
người khỏi vô minh và ngộ nhận do theo đuổi một ý thức hệ đã lỗi thời. Ý nghĩa
của Khai dân trí tương tự như Enlightenment trong
tiếng Anh. Còn Dân khí thường dùng để chỉ sức mạnh tinh thần,
không chỉ dựa trên lý trí mà còn bao gồm cả cảm xúc (EQ). Chấn dân khí chính
là nhằm khôi phục và tăng cường sức mạnh tinh thần và nhuệ khí của dân tộc. Một
khi dân trí thấp kém và dân khí yếu hèn thì giới trí thức phải giúp
nhau và giúp người dân khai mở trí tuệ để đổi mới tư
duy, góp phần chấn hưng quốc gia và hội nhập cùng với trào lưu
chung của nhân loại tiến bộ.
Có nhiều khái niệm liên quan đến người dân như “của
dân, do dân, vì dân” (of the people, by the people, for the people) của
tổng thống Mỹ Abraham Lincoln (1863), hoặc “tam dân chủ nghĩa” (three
principles of people) của ông Tôn Trung Sơn (1924) bao gồm “dân tộc”
(nationalism), “dân quyền” (civil rights), “dân sinh” (people’s livelihood)…
Sinh thời, cụ Phan Châu Trinh và các nhân sĩ khác đều quan tâm vận dụng những
tư tưởng này. Nhưng các cụ không biết rằng một thế kỷ sau, những tư tưởng cấp
tiến đó vẫn còn là khẩu hiệu.
Không phải chỉ có giới cầm quyền, mà cả người dân với
tư duy truyền thống, cũng tin rằng “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất
nông nhì sĩ”. Có lẽ vì vậy mà sau khi quốc gia khởi nghiệp bằng bạo lực do “cướp
chính quyền” (năm 1945), Việt Nam đã “khai dân trí” bằng hệ thống “bình dân học
vụ”, và sau chiến tranh (năm 1954) bằng hệ thống “bổ túc công nông”. Điều đó
không sai về công bằng xã hội, nhưng là thảm họa nếu phủ nhận vai trò của trí
thức khi người Việt muốn khởi nghiệp hay chấn hưng quốc gia. Nó lý giải tại sao
Việt Nam vẫn tụt hậu và chính phủ “kiến tạo” còn gặp khó khăn khi xây dựng một
nền kinh tế tri thức. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa Việt Nam với Nhật
Bản (và các nước khác).
Nhưng làm sao có dân trí cao khi người Việt Nam bắt
chước người Trung Quốc đấu tranh giai cấp cực đoan bằng bạo lực (với khẩu hiệu
“trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”). Thời “cách mạng văn hóa”, Mao
Trach Đông đã nói thẳng “trí thức không bằng cục phân” và đuổi họ về nông thôn
để “cải tạo lao động” (trong đó có cả Tập Cận Bình). Nhiều người vẫn chưa quên
những bài học kinh hoàng về “cải cách ruộng đất” và những màn đấu tố đầy bạo lực.
Những gì diễn ra ở Trung Quốc thường lặp lại tại Việt Nam, tuy quy mô, mức độ
và thời gian có khác nhau, nhưng mô hình và phương thức gần giống nhau (đến tận
bây giờ). Việt Nam chống tham nhũng là rất đúng và cần thiết, nhưng vẫn bắt chước
Trung Quốc.
Không phải ngẫu nhiên mà chính quyền hành xử cực
đoan và thiếu dân chủ. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu PEW (Mỹ), 79% người
Việt trả lời là họ ủng hộ dân chủ “vừa phải”, 29% coi chính quyền là thể chế “rất
tốt”, 41% coi là “hơi tốt” và chỉ có 3% coi là “rất xấu”. Nhiều người dân vẫn
thích chuyên chính (đối với kẻ khác). Cực đoan và thù hận, vô cảm và vô minh là
những căn bệnh nan y mãn tính của người Việt (cả trong nước lẫn ngoài nước). Ai
đã khủng bố và giết hại năm nhà báo người Việt tại Mỹ (giai đoạn
1981-1990)? Cái gì đã làm người Việt (cả hai phía) khó hòa giải dân
tộc để chấn hưng quốc gia?
Một số người phê phán cách dùng chữ “người Việt” là
không đúng (mà theo họ phải gọi là chính quyền cộng sản). Phải chăng họ chỉ muốn
áp đặt ý của mình cho người khác, và quen đổ lỗi cho người khác, còn mình thì
vô can. Chẳng có ai thực sự vô can hay “ngoại phạm” vì người ta hay nói “dân
nào thì chính phủ ấy” và “quan tham vì dân gian”. Chính quyền tham nhũng vì người
dân hay hối lộ. Có vấn nạn thực phẩm độc hại vì dân gian và tham. Có vấn nạn chạy
bằng cấp vì người dân hám danh và thích bằng cấp (do dân trí thấp).
Đánh
tráo khái niệm và tụt hậu
Trong bối cảnh Việt Nam, hai chữ “nhân dân” được sử
dụng quá nhiều như lạm phát. Từ “ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, chính quyền
nhân dân, đến công an nhân dân, tòa án nhân dân, quân đội nhân dân, và chiến
tranh nhân dân…Hầu như cái gì cũng gắn với “nhân dân” như khẩu hiệu dân vận.
Người Việt thích vay mượn khái niệm “của dân, do dân, vì dân” của người Mỹ và mặc
nhiên coi đó là của mình. Thực ra của ai không quan trọng, nhưng họ có thực sự
tin vào điều đó không và lời nói có đi đôi với việc làm không. Gần đây, bộ trưởng Chủ
nhiệm văn phòng chính phủ Mai Tiến Dũng có nói một câu làm bộc lộ bản chất, “Nếu
ta sai, ta sẽ xin lỗi dân. Nếu dân sai, dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ một kinh nghiệm thu thuế
thật ấn tượng, “Thu thuế phải như vặt lông vịt, vặt sao cho sạch nhưng đừng quá
vội để vịt nó kêu toáng lên”.
Tại Việt Nam có rất nhiều khẩu hiệu dân túy như “thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân” với “dân chủ cơ sở”, theo nguyên tắc “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên tinh thần “dân chủ tập trung” trong nền
“kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng các ý tưởng
dân chủ đã bị đánh tráo không còn như ban đầu, giống một đoàn tàu bị bắt cóc
(hijacked) và người cầm lái bẻ ghi đoàn tàu chạy theo hướng khác. Người ta chỉ
giữ lại cái vỏ và những khẩu hiệu mỵ dân để che đậy bản chất mới. Đó chính là
“diễn biến” và “suy thoái”.
Trong Hiến pháp 1946, lời nói đầu đã khẳng định ba
nguyên tắc cơ bản là: (1) Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống
nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; (2) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; (3) Thực
hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Đó là một hiến
pháp tiến bộ, được lòng dân. Trong thời kỳ hậu chiến (1975-1988), tại Việt
Nam vẫn tồn tại ba đảng là Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, và Đảng Dân chủ. Nhưng từ
năm 1988, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam đã buộc phải “tự giải
thể”, chỉ còn một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Hiến
pháp mới, đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất lãnh đạo toàn diện đất
nước. Đó là một bước tụt hậu về dân chủ.
Cụ Hồ đã từng định nghĩa dân chủ một cách dễ hiểu:
“Dân chủ là để làm sao cho dân được mở miệng ra. Đừng để dân sợ
không dám mở miệng, nhưng còn nguy hại hơn là khi người dân không
thiết mở miệng nữa…” Nhưng thời thế thay đổi, khi dân
chủ và tự do báo chí ngày càng bị thu hẹp. Theo xếp hạng của tạp chí Economist
(2012) về chỉ số dân chủ, Việt Nam đứng thứ 144 trên tổng số 167 quốc gia được
xếp hạng và nằm trong nhóm các nước độc tài thiếu dân chủ, được bộ ngoại giao Mỹ
xếp vào nhóm nước “chưa có dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tôn giáo”.
Nhưng để lý giải sự suy thoái và tụt hậu hiện nay, không nên chỉ đổ lỗi cho những
người cầm lái đoàn tàu, mà còn phải xem lại dân trí của hành khách đi trên tàu.
Năm ngoái, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh
Hùng đã mượn câu đó của cụ Hồ để nói về tự do ngôn luận, tự do báo chí của người
dân trong luật báo chí sửa đổi (GDVN, 18/2/2016). Trong bối cảnh đó,
ông Hùng nhấn mạnh: “Ta mà hiểu rằng quản lý là siết lò so lại không cho làm là
không được đâu, là vi phạm Hiến pháp”. Theo “quy trình”, Luật Báo chí điều chỉnh
các loại hình báo chí và không cho tư nhân hóa báo chí, còn quản lý thông tin
trên mạng được điều chỉnh theo Nghị định 72. Ông Hùng lý giải, “Hiến pháp nói về
quyền tự do và chỉ hạn chế bằng luật, thế thì bây giờ các đồng chí định hạn chế
cái gì, cấm cái gì thì phải đưa vào luật chứ để trong nghị định là không được
đâu… Quản lý bằng nghị định cũng được, nhưng nghị định mà đụng đến quyền tự do
dân chủ thì không được”. Nhưng sang năm 2017, việc kiểm soát báo chí
và mạng xã hội còn bị “siết lò so” mạnh hơn, như một bước thụt lùi.
Thực
trạng về dân trí
Dân trí về quản trị đất nước chưa trưởng thành (immature). Tuy
kinh tế Việt Nam tiếp tục tụt hậu (một số lĩnh vực thua cả Campuchia), nhưng đất
nước vẫn đi theo một mô hình “không giống ai” (mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi
Lan gọi là “không chịu phát triển”). Tuy chiến tranh lạnh đã chấm dứt gần ba thập
kỷ, nhưng Việt Nam vẫn hồn nhiên cử đặc vụ sang Berlin bắt cóc Trịnh Xuân
Thanh, vi phạm luật quốc tế và chủ quyền quốc gia Đức, gây khủng hoảng ngoại
giao Đức-Việt, làm chính phủ Đức nổi giận, đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược
với Việt Nam (và có thể phủ quyết EVFTA). Trong khi nhà nước hô hào về “chủ quyền
quốc gia” và “an ninh quốc phòng”, thì người Trung Quốc được thuê dài hạn rừng
đầu nguồn và chiếm các vị trí hiểm yếu làm dự án. Gần đây, chính phủ do túng tiền
đã quyết định bán các doanh nghiệp hàng đầu (Vinamilk và Sabeco) cho nước ngoài
kiểm soát. Phải chăng đó là biểu hiện của dân trí thấp như “khôn nhà dại chợ”
và “tham bát bỏ mâm” (nên lợi bất cập hại?).
Dân trí về hợp tác và hội nhập còn kém. Người ta nói
rằng người Việt làm việc gấp 3 lần người Nhật, nhưng khi hợp lực lại thì 3
người Việt mới bằng một người Nhật. Theo tiến sĩ Lê Thẩm Dương, người
Nhật biết cách quản lý thời gian và làm việc nhóm hiệu quả, còn người
Việt thì không. Giám đốc VJCC tại Hà nội nhận xét, “Người Việt
Nam làm việc rất thông minh, cần cù, khi được các chuyên gia hướng dẫn thì họ
biết phải làm gì và học hỏi rất nhanh. Thực tế là các bạn làm việc tốt hơn 3 lần
so với người Nhật nhưng chỉ khi các bạn làm một mình. Tuy nhiên, khi các bạn
làm việc tập thể thì các bạn làm không tốt bằng người Nhật chúng tôi vì khả
năng làm việc nhóm (teamwork) của các bạn không tốt bằng người Nhật, và tôi có
thể khẳng định rằng khi làm việc tập thể thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật”.
Dân trí về văn hóa ứng xử xuống cấp nghiêm trọng, dẫn
đến bạo hành gia đình, bạo lực học đường và bạo lực xã hội (ngay trong các lễ hội
văn hóa truyền thống). Trong khi nhiều cô “bảo mẫu” bạo hành với trẻ em mẫu
giáo (hết vụ này tới vụ khác), thì Bộ giáo dục và các địa phương vẫn chưa có giải
pháp hữu hiệu để chấm dứt tình trạng đó, mà chỉ rút kinh nghiệm và đổ trách nhiệm
cho nhau. Dân trí về lịch sử và ngôn ngữ cũng có vấn đề, khi một số “trí thức”
lúc thì đề xuất “bỏ môn lịch sử”, lúc khác lại đề xuất “cải cách chữ viết tiếng
Việt”, như một trò đùa vô minh về “cải cách giáo dục”, làm cho dư luận cả nước
bức xúc.
Dân trí về bảo vệ sức khỏe của người dân còn lạc hậu,
đa số thiếu ý thức “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Họ thường không kiểm tra định kỳ
để phát hiện bệnh sớm, vừa do hoàn cảnh vừa do dân trí thấp. Nhiều người mắc bệnh
vì thực phẩm độc hại hay ô nhiễm môi trường (do nhân họa) trong khi đó một số
“không nhỏ” các quan chức y tế và bác sỹ (thoái hóa) lại tiếp tay cho các công
ty dược như VN Pharma nhập thuốc ung thư dổm về bán cho bệnh nhân. Việt
Nam đang trở thành tâm điểm của ung thư, mỗi năm có hơn 126.000 ca mắc bệnh ung
thư mới, và khoảng 94.000 người tử vong vì ung thư. Xu hướng này ngày càng gia
tăng, không những gây tổn thất lớn cho nền kinh tế mà còn làm cho biết bao gia
đình điêu đứng.
Dân
trí và tham nhũng
Chống tham nhũng “giai đoạn 2.0” quyết liệt hơn với
hình tượng “lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” mà TBT Nguyễn
Phú Trọng đã cao hứng mô tả. Sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt tại Berlin
(23/7/2017), Đinh La Thăng cũng bị bắt tại Hà Nội (8/12/2017).
Nhưng chống tham nhũng chắc không dừng lại ở “đại án
PVN” mà còn tiếp diễn nhằm chiếu tướng (tuy chưa rõ là chiếu tướng ai). Trong
khi nhiều người tin rằng đánh ông Đinh La Thăng là để chiếu tướng ông X (cầm đầu
“bên thua cuộc”), những một số khác cho rằng đánh “Vũ Nhôm” là để chiếu tướng
ông Y (đối thủ số một đang cầm quyền). Đây là trò chơi vương quyền (game of
thrones) có nhiều ẩn số. Nhưng việc khám nhà và truy nã “Vũ Nhôm” sau khi thả
rông để đương sự thoái vốn và bỏ trốn, là một vở kịch vụng về. Dân trí cao hay
thấp khi công tác an ninh, tình báo của quốc gia cũng bị “thương mại hóa” và biến
thành bi hài kịch.
Gần đây, nhiều người bức xúc hỏi tại sao người ta lại
để những người “vi phạm đặc biệt nghiêm trọng” tiếp tục vào Trung ương và Bộ
Chính trị… Ông Trần Quốc Hương (nguyên phó chủ nhiệm Ban Tổ chức TW) hỏi lúc đó
“các cơ quan kiểm tra, tổ chức của Đảng có ý kiến gì không trước những vi phạm
của Đinh La Thăng?” Luật sư Trần Quốc Thuận nói: “Đó là một ẩn số cần làm rõ”.
(Tiền Phong, 18/12/2017). Phải chăng vì vậy mà TBT Nguyễn Phú Trọng phải dự họp
chính phủ (28/12/2017) để triển khai chủ trương “nhất thể hóa”. Không biết ông
Nguyễn Phú Trọng có ý gì khi nói “Từ bé đến giờ mới được dự họp chính phủ”.
Chiến dịch chống tham nhũng nhắm vào hai nhóm đối tượng
chính là một số “thái tử đảng” và quan chức địa phương (để đánh “từ vòng ngoài
vào vòng trong”). Sau khi xử lý Vũ Huy Hoàng và Trầm Bê, ngày 8/1/2017 sẽ xét xử
Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh. Dường như vòng vây đang gấp rút khép lại để
chiếu tướng ông X, nhưng vụ khám xét và truy nã “Vũ Nhôm” ở Đà nẵng
(21/12/2017) lại mở ra một hướng khác như để chiếu tướng ông Y. Nhưng dù chiếu
tướng ông nào thì đất nước cũng là “bên thua cuộc” và nhân dân vẫn là nạn nhân
của “trò chơi vương quyền” đang làm đất nước phân hóa và kiệt quệ, đứng trước
những rủi ro tiềm ẩn về kinh tế và những hiểm họa khôn lường về an ninh và chủ
quyền quốc gia.
Thay
lời kết
Đã gần một thế kỷ trôi qua kể từ khi cụ Phan Châu
Trinh kêu gọi “khai dân trí và chấn dân khí”, nhưng Việt Nam vẫn còn loanh
quanh tại ngã ba đường, chưa thoát khỏi hệ tư tưởng đã làm đất nước tụt hậu so
với Nhật Bản hàng trăm năm. Muốn “khai dân trí”, Việt Nam phải thay đổi hệ quy
chiếu đã lỗi thời, và phải đổi mới thể chế toàn diện. Nếu không thực sự đổi
mới thể chế thì việc chống tham nhũng cũng giống như trò “hàn soong hàn nồi”. Để
thay cho câu kết, xin mượn lời Albert Einstein (nói cách đây gần một thế kỷ), “Chúng
ta không thể giải quyết được vấn đề với cùng một cách tư duy mà chúng ta đã
dùng để tạo ra chúng” (We can’t solve problems by using the same kind of
thinking we used when we created them).
NQD.
01/01/2018
No comments:
Post a Comment