Trước
những nỗ lực không ngừng nghỉ của những người VN yêu quốc gia dân tộc, trong
cũng như ngoài nước, vài năm trở lại đây việc “tưởng niệm” cuộc hải chiến Hoàng
Sa đồng thời vinh danh 74 chiến sĩ VNCH anh hùng vị quốc vong thân, dường như
đã trở thành một “thủ tục”. Mặc đầu chỉ mới là “thủ tục không chính thức”,
nhưng phải nhìn nhận đó là một sự nhượng bộ rất lớn của lãnh đạo CSVN. Đông đảo
tầng lớp trí thức, cán bộ, đảng viên, tướng lãnh… xuất thân từ “bên thắng cuộc”
hưởng ứng buổi lễ tưởng niệm đã khiến cho nhà cầm quyền CSVN, dầu thân thiện
(hay lệ thuộc) với TQ như thế nào, cũng không thể nghiêm cấm, bắt bớ, phá rối…
không cho mọi người tụ tập như vài năm về trước.
Ý
chí của số đông thể hiện sức mạnh. Nhứt là “ý chí” này thể hiện lòng yêu nước nồng
nàn, nêu cao truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Nhưng công việc này
không thể ngừng ở đó. Không phải mỗi năm mọi người tham gia làm lễ tưởng niệm
thì vấn đề Hoàng Sa xem như “hoàn tất”.
Các
cuộc tưởng niệm, các bài báo viết ra… dầu đề cao tinh thần chiến đấu, anh dũng
hy sinh của các chiến sĩ VNCH đến cách nào, cũng không thể xem đó như là việc
“khẳng định chủ quyền HS” của quốc gia VN. Bởi vì những vấn đề liên quan đến
“chủ quyền lãnh thổ” tuy thuộc về toàn dân. Nhưng việc tưởng niệm chỉ có giá trị
pháp lý, nếu và chỉ nếu, các cuộc tổ chức này do các cơ quan có thẩm quyền quốc
gia đứng ra tổ chức.
Vấn
đề “chủ quyền” quần đảo Hoàng Sa cực kỳ quan trọng. Giá trị các hòn đảo, không
phải là “đảo chim ỉa” như ông Hồ đã từng nói. Từ Thế chiến Thứ II, giá trị “chiến
lược” các đảo (HS và TS) đã được chứng minh. Quan điểm này đến nay không thay đổi.
Ai nắm được HS và TS kiểm soát cả biển Đông đồng thời chế ngự các nước chung
quanh. Ngoài ra hai quần đảo HS và TS còn có tiềm năng về kinh tế cực kỳ lớn
lao.
Quốc
gia có chủ quyền các đảo Hoàng Sa (và TS) còn có “quyền độc quyền - droit
exclusive” khai thác kinh tế trong “vùng biển” phụ thuộc các đảo Hoàng Sa (và
TS). Thuật ngữ pháp lý gọi đó là vùng biển “kinh tế độc quyền” (Zone Economique
Exclusive-ZEE), có thể mở rộng ra đến 200 hải lý, tính từ “bờ”, hay đường cơ bản
của quần đảo.
Quốc
gia có chủ quyền các đảo này vì vậy được hưởng quyền độc quyền khai thác tài
nguyên thuộc về thềm lục địa, cũng như trong cột nước (tôm cá), xây dựng các kiến
trúc nhân tạo… trên mặt nước… giới hạn trong vùng biển này.
Diện
tích vùng biển ZEE các đảo Hoàng Sa có thể từ vài chục ngàn cây số vuông, lên đến
vài trăm ngàn, thậm chí hàng triệu cây số vuông.
Điều
này phụ thuộc, thứ nhứt, vào “tư cách pháp lý” của các thực thể địa lý cấu
thành “quần đảo Hoàng Sa”. Nếu các thực thể địa lý này được nhìn nhận là “đảo”,
vùng ZEE của mỗi đảo có thể mở rộng đến 200 hải lý, tính từ đường cơ bản của đảo
(hay của quần đảo).
Thứ
hai, phụ thuộc vào “tương quan sức mạnh” của các bên yêu sách.
Nếu
các đảo HS vẫn còn thuộc chủ quyền của VN, vùng ZEE của quần đảo này sẽ tạo ra
một vùng biển “chồng lấn” rất lớn với vùng ZEE sinh ra từ lục địa (hay đảo Hải
Nam) của TQ. Dĩ nhiên, TQ sẽ không chấp nhận cho các “thực thể địa lý” Hoàng Sa
có hiệu lực như là “đảo”. Bằng “áp lực” của họ, về kinh tế và quân sự, TQ sẽ buộc
VN nhìn nhận các “thực thể địa lý” ở Hoàng Sa chỉ là “đá”. Vùng biển tương ứng
chung quanh gọi, là “lãnh hải”, là 12 hải lý theo qui định theo quốc tế công
pháp.
Nhưng
nếu chủ quyền HS thuộc về TQ, như thực tế từ 43 năm nay, với “tương quan lực lượng”
áp đảo, không tính quân sự, TQ chỉ cần gây áp lực trên những vấn đề kinh tế,
văn hóa, chính trị… như hiện thời, VN sẽ phải chấp nhận các “thực thể địa lý
HS” là các đảo, kể cả đảo Tri Tôn, có hiệu lực vùng ZEE 200 hải lý. Đường “chữ
U chín đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) của TQ mặc nhiên được VN nhìn nhận.
Điều
này xảy ra VN có thể mất hàng trăm ngàn cây số vuông biển. Một mặt, vùng biển của
các đảo HS, lý ra là của VN. Mặt khác, vùng chồng lấn ZEE giữa ZEE của HS với
ZEE thềm lục địa của VN, tính từ bờ.
Nói
ra những chi tiết “kỹ thuật” này để nhấn mạnh cho mọi người thấy là vấn đề
Hoàng sa (và Trường sa) là hết sức quan trọng, vừa về kinh tế, vừa về an ninh
chiến lược. Mà việc “tưởng niệm” hàng năm chỉ nghiêng về mặt “biểu tượng”, về
“lịch sử”, không có giá trị pháp lý.
Việc
này thể hiện tình ở bề ngoài tình “đoàn kết” của dân tộc, nhưng chỉ có hiệu lực
“tâm lý”, tuyên truyền.
Thực
chất là Hoàng Sa đang ở trong tay TQ. Trong khi TS, một số thực thể địa lý ở
đây đã bị TQ chiếm (trên tay VN) từ năm 1988. Vụ TQ đe dọa khiến VN rút giàn
khoan ở lô 136-03 ở phía tây-nam TS cho ta thấy đe dọa chiếm lĩnh TS cùng toàn
thể Biển Đông của TQ rất là lớn.
Thể
hiện tình “đoàn kết dân tộc”, như cái cách đã thấy, không hề có giá trị “kế thừa”
di sản pháp lý của VNCH. Ở Hoàng Sa là “danh nghĩa chủ quyền”.
Biết bao lần tôi đặt câu hỏi : Làm thế
nào nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN “kế thừa” Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng Hòa ?
VN
hôm nay không thể “kế thừa” cái mà VNCH đã “mất”, không còn nữa. TQ đã chiếm HS
trên tay VNCH trước khi miền Bắc “giải phóng” miền Nam.
Vả
lại, trong thủ tục kế thừa, những câu hỏi nhức nhối từ phía các học giả, chuyên
gia về quốc tế công pháp… đặt ra cho VN.
Trường
hợp học giả Joële Nguyên Duy-Tân, người hết lòng với VN về vấn đề chủ quyền HS
và TS. Bà đặt câu hỏi (nội dung đại khái) : Làm thế nào mấy anh có thể kế thừa ở
thực thể mà anh không nhìn nhận ?
Tức
là, ngay ở những học giả nước ngoài có lập trường thân với VN, họ cũng hoài
nghi về việc “kế thừa di sản” VNCH. Huống chi các học giả TQ, họ nói, họ viết
“trong ruột” nhà cầm quyền Hà nội.
Từ
nhiều năm nay tôi hô hào việc “hòa giải dân tộc”, xem đó như là một “điều kiện”
không thể thiếu để “kế thừa” danh nghĩa chủ quyền của VNCH tại HS. Sau này tôi
đổi thành “hòa giải quốc gia”, vì việc “hòa giải dân tộc” để “kế thừa” dễ ngộ
nhận với việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”, một “vấn đề chính trị”.
Nhưng
vấn đề khó khăn hiện nay của VN ở HS (và TS) không chỉ đơn thuần ở vấn đề “kế
thừa” VNCH.
Quốc
gia tên gọi Cộng hòa XHCN Việt Nam hôm nay là quốc gia “tiếp nối” của thực thể
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trên quân điểm pháp lý quốc tế, nước CHXHCNVN có
nghĩa vụ phải tôn trọng và thực thi những kết ước mà VNDCCH đã ký kết với các
quốc gia khác trong quá khứ.
Như
vậy nước CHXHCNVN hôm nay phải có nghĩa vụ tôn trọng “công hàm 1958” của Phạm
Văn Đồng, theo đó VNDCCH nhìn nhận yêu sách vùng lãnh hải 12 hải lý cũng như
yêu sách chủ quyền của TQ ở HS và TS.
Để
hóa giải các hứa hẹn này, khiến VN bị vướng "Estoppel" hay
“Acquiescement” nếu vụ việc được đưa ra tòa quốc tế phân xử, tôi đã đề nghị lý
thuyết “quốc gia chưa hoàn tất”. Theo đó VNDCCH và VNCH chỉ là “các bên” thuộc
về một quốc gia “duy nhứt” là VN. Tương tự Nam, Bắc Hàn; Đông, Tây Đức… Điều
này tôi có đề cập trong lá thư gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhân vụ giàn
khoan HD 981 đặt trên thềm lục địa của VN, tháng Năm năm 2014.
Ý
kiến của tôi được các “học giả” VN mượn lại. Tuy có “chế biến” để khác đi, dầu
sao cũng là điều mừng, nếu mục đích nhằm phục vụ cho quyền lợi của đất nước và
dân tộc VN.
Nhưng
điều lo ngại, như “thông lệ”,
những gì tuy có lợi cho đất nước, cho dân tộc, nhưng “có hại” cho quyền lợi của
đảng, thì vấn đề sẽ khác đi.
Khi
tôi làm nghiên cứu, viết về “biên giới, lãnh thổ” thì lập tức có những “học giả”
VN cũng nghiên cứu chủ đề này. Nhưng mục đích của họ không phải để đi tìm “sự
thật”, mà để lấp liếm, che đậy những hành vi nhượng đất của lãnh đạo CSVN. (Điều
này có dịp thuận tiện sẽ quay trở lại).
Khi
tôi viết về chủ quyền HS, TS, về hải phận... thì cũng có học giả VN viết về chủ
đề này. Dĩ nhiên cũng để lái vấn đề qua chỗ khác, không để ai nhìn thấy những
sai lầm, những việc nhượng bộ mờ ám của lãnh đạo CSVN ở Biển Đông.
Điều
này thể hiện trên thực tế, thí dụ tôi đề nghị lý thuyết “quốc gia duy nhứt” thì
họ cũng lặp lại y như vậy. Nhưng với quan điểm “giải phóng và thống nhứt dân tộc”.
Tôi
đề cập nhiều lần, có người dân miền Nam nào muốn CSVN “giải phóng” mình hay
không ? Ngay cả quan chức CSVN, ông Đinh La Thăng cũng nhìn nhận Sài gòn đã từng
là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Đây là sự thật, và sự thật là dân miền Nam giàu có,
văn minh hơn miền Bắc. Thì chính nghĩa của “giải phóng” ở đây là cái gì ?
Khi
tôi viết “hòa giải quốc gia” thì họ nhập nhằng ‘hòa hợp hòa giải dân tộc” hay
“đoàn kết dân tộc”. Làm thế nào hai bên còn “hận thù”, còn đầy dẫy gút mắc, nếu
chưa thông qua thủ tục “hòa giải” thì làm sao có thể “đoàn kết” hay “hòa hợp”
được ?
Kể
ra thì rất dài, khi tôi viết luật pháp quốc gia, về “nhà nước pháp trị” thì các
“học giả” cũng viết về luật, nhưng mục đích để binh vực “nhà nước pháp quyền” của
đảng CSVN v.v…
Mình
làm cái gì thì các “chiến sĩ văn hóa” cũng làm cái nấy.
Cá
nhân tôi, lâu nay làm gì cũng chỉ có “một mình”. Mặc dầu làm việc hữu ích cho
“lịch sử”, cho dân tộc VN, nhưng chưa hề có cá nhân, đảng phải, tổ chức, cơ
quan báo chí... nào ủng hộ hết cả. Từ khi có internet, có facebook, các ý kiến
của tôi mới được một số bạn bè chia sẻ. Thật tình rất cám ơn.
Đến
nay vấn đề đã “cấp bách” lắm rồi, nếu không nói là đã quá trễ rồi. Những gì cần
phải viết về chủ quyền HS và TS tôi đã viết nhiều lần, hôm nay chỉ là lặp lại.
Dầu
sao thì lương tâm của mình cũng nhẹ nhàng, mặc dầu không thiếu những người xem
tôi là “thế lực thù địch”, hay chỉ trích “làm lợi cho TQ”. Ngay cả khi Biển
Đông và TS không còn thuộc VN, tôi nghĩ mình đã xong bổn phận.
Bởi
vì sức lực và trí tuệ của mình có hạn. Mà cả vú còn lấp được miệng em. Huống
chi...
No comments:
Post a Comment