Nguyễn
Thị Hậu, Tùy bút
Viet-Studies
25-1-2018
1.
Nhiều
người biết đến Đài Loan từ những tiểu thuyết lãng mạn của nhà văn Quỳnh Dao thịnh
hành hồi thập niên 70 của thế kỷ trước, sau này nhiều bộ phim được chuyển thể từ
tiểu thuyết của bà cũng rất “ăn khách”. Qua đó, Đài Loan hiện ra như một “hòn đảo
xinh đẹp - Formosa” đúng như cái tên nó được người châu Âu đặt cho từ rất lâu.
Có
thể coi đây là một “quốc đảo” gồm có đảo Đài Loan lớn nhất và một số quần đảo
khác. Nằm trong vành đai “núi lửa” Thái Bình Dương, phần lớn diện tích là đồi
núi với khí hậu ôn hòa nên Đài Loan đa dạng về cảnh quan tự nhiên. Dân cư Đài
Loan hiện nay đa số là người Hoa nhưng các tộc người bản địa luôn được coi trọng
và các mặt kinh tế - xã hội phát triển không thua kém người Hoa. Thậm chí những
“đặc sản” về nông sản, sản phẩm văn hóa nổi tiếng hiện nay được ngành du lịch
quảng bá là của các tộc người “thổ dân” có mặt trên đảo Đài Loan từ hàng ngàn
năm trước.
Nếu
nhìn Đài Loan từ hạ tầng cơ sở và công trình xây dựng ở các thành phố lớn thì
có thể nhận xét, cảnh quan và kiến trúc hiện đại nhưng… đơn điệu, hướng đến
tính hiệu quả chứ không phải tính mỹ thuật. Hệ thống giao thông công cộng phát
triển tất cả các loại hình: đường hàng không, xa lộ cao tốc, xe lửa, xe bus, đường
trên cao, cầu vượt… tuy không rộng lớn nhưng “phủ kín” từ Bắc xuống Nam, Đông
sang Tây trong diện tích khoảng gần 36 ngàn km2. Địa hình đồi núi
nên nhiều đoạn đường thực chất là những cầu cạn uốn lượn theo sườn núi hay dòng
sông. Trong các thị trấn và thành phố dưới lòng đường và trên vỉa hè mỗi bên đều
có hai hệ thống cống thoát nước rất lớn, cứ khoảng 5m có một miệng cống, nắp cống
bằng gang đúc có nhiều khe hở. Giải pháp này giúp thoát nước rất nhanh nhất là
vào mùa mưa bão.
Nhìn
trên bản đồ địa hình Đài Loan có một đặc điểm gần giống khu vực Cần Giờ TP.HCM:
nhiều sông lớn nhỏ hình thành từ những ngọn núi hoặc do bờ biển xâm thực. Vì vậy
các thành phố có nhiều cây cầu hầu hết thiết kế đơn giản kiểu cầu dây văng. Mùa
này nước cạn lòng sông hẹp, một bên bờ được xây kè chống sụt lở còn bên kia là
bãi bồi. Phía bờ kè luôn có vườn hoa thảm cỏ cùng với bãi đậu xe hơi cho những
chung cư gần đó.
Có
lẽ không bị sức ép về dân số nên các thành phố ít có công trình cao tầng và
“hoành tráng”, kiểu dáng và màu sắc của phố xá nhà ở khách sạn chủ yếu màu xám,
nâu nhạt… không rực rỡ như “đại lục” ngoại trừ mấy khu Chợ đêm phục vụ du
khách. Nhưng từ bãi biển đến đồi núi, từ đường phố trung tâm đến xóm làng… tất
cả đều rất sạch sẽ do ý thức của mọi người. Vỉa hè lát loại đá tự nhiên nhẵn
nhưng không trơn trượt. Trên vỉa hè và dưới lòng đường dù hẹp vẫn có nhiều đoạn
kẻ vạch dành đậu xe hơi và xe máy, xe đạp cũng được nhiều người sử dụng nên phần
lớn đường thành phố có làn dành riêng cho xe đạp. Cây xanh bao phủ khắp nơi, một
khoảng trống nhỏ cũng trở thành thảm cỏ xanh hay bồn hoa rực rỡ.
***
Các
thành phố lớn ở Đài Loan đều có chợ đêm, tuy được hình thành chưa lâu nhưng đã
trở thành một trong những sản phẩm du lịch chủ yếu và mang lại nguồn lợi lớn
cho người dân địa phương. Đó là những khu phố đi bộ bố trí hàng quán hai bên, về
khuya thì xe hàng được đẩy ra bán ngay trên đường. Ẩm thực ở chợ đêm nhiều nhất
là đồ chiên nướng như hải sản (như mực, hàu), gà, khoai lang, đậu hũ thúi, cơm
chiên mì xào… trái cây bán trái hay ký, hoặc cắt miếng đựng trong hộp, tất
nhiên không thể thiếu “đặc sản” trà sữa. Ngoài ra là hàng tiêu dùng, bánh kẹo của
Đài Loan và một số “hàng hiệu” của thế giới… Các mặt hàng không quá đặc sắc
nhưng đảm bảo an toàn thực phẩm và không lo hàng giả. Điều thú vị là ở Chợ đêm
hầu hết các quầy hàng đều do thanh niên bán hàng một cách chuyên nghiệp, nhanh
nhẹn và thân thiện. Nhộn nhịp nhưng không ồn ào, an ninh và sạch sẽ cũng là một
ưu điểm để du khách lựa chọn đến đây.
Đi
dạo chợ đêm nảy ra câu hỏi, vì sao chúng ta có nhiều loại hàng hóa độc đáo, ẩm
thực đặc sắc mà không có một loại nào trở nên phổ biến như trà sữa Đài Loan: vì
chưa biết “cải biến” thêm bớt gia vị nguyên liệu để phù hợp hơn với “giới trẻ
thời @” hay vì chưa biết cách thức quảng bá tiếp cận với du khách? Vì sao chợ
đêm và phố đi bộ ở TP.HCM còn đơn điệu về hàng quán, ẩm thực và những sinh hoạt
ở đó nên chưa thực sự là “không gian cho cộng đồng”? Vì sao không có nhiều người
trẻ bắt đầu từ việc đầu tư và chăm lo những quầy hàng nho nhỏ không đòi hỏi nhiều
vốn liếng và kỹ năng nhưng độc đáo, hơn là mơ tưởng đến những dự án “khởi nghiệp”
hoành tráng?
***
Tòa
tháp Đài Bắc thường biết đến tên gọi Toà nhà Taipei 101 là
nơi mà ai đến Đài Loan cũng muốn check-in tại đây. Khởi công
xây dựng năm 1999 và hoàn thành năm 2004 vào thời điểm đó là tòa nhà cao nhất
thế giới: 509m cả cột anten với 101 tầng. Về hình dáng, tòa nhà như một
thân cây tre với 8 khúc, biểu trưng cho sự tăng trưởng tốt, và mỗi khúc lại gồm
8 tầng vì trong văn hóa Trung Hoa, “bát” biểu trưng cho sự phồn vinh, sung mãn.
Để đưa du khách lên tầng thứ 89 cách mặt đất 383,4m để có thể ngắm toàn cảnh
thành phố Đài Bắc qua lớp kính dày trong suốt đã có hai thang máy vận hành ở tốc
độ cao đến 1.010m/phút nên chỉ mất 39 giây. Từ đây đi cầu thang bộ lên 2 tầng nữa,
từ tầng 91 lộ thiên ở độ cao 390m bạn có thể ngắm phong cảnh và hít thở không
khí mát mẻ trong lành ngoài trời. Mỗi phía là một cảnh quan: nơi thì màu xanh
bát ngát của rừng núi, nơi nhấp nhô những tòa nhà, nơi là những cây cầu qua những
dòng sông chảy giữa thành phố, nơi nhìn xa xa là biển. Cũng ở tầng này có một phòng
chiếu phim nhỏ, du khách có thể xem bộ phim về quá trình xây dựng và sự kiện
khánh thành tòa nhà. Đi bộ xuống tầng 87 ta được tận mắt nhìn thấy quả cầu sắt
mạ vàng khổng lồ nặng hơn 600 tấn được đặt ở đây với chức năng giữ thăng bằng
cho tòa nhà khi gió bão hay động đất.
Là
trung tâm tài chính thế giới ở Đài Loan nên Tòa nhà Taipei 101 được
coi là biểu tượng của thành phố Đài Bắc và của đất nước Đài Loan về kiến trúc độc
đáo vừa hiện đại vừa truyền thống, đồng thời là biểu tượng sức mạnh kinh tế của
một trong “bốn con rồng châu Á”.
***
Ở
Đài Loan vẫn duy trì và phát triển một số nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng của
Trung quốc, nhất là nghề chế tác đá quý. Thành phố nào cũng có cửa hàng đá quý
thu hút rất nhiều du khách, nhất là khách châu Á vì đồ trang sức hay vật trang
trí đều được giới thiệu là có chức năng hợp “phong thủy” hoặc có lợi cho sức khỏe.
Đá ngọc các màu xanh, nâu, vàng hay trong suốt, san hô đỏ, kim cương rực rỡ, ngọc
trai trắng tinh… phần lớn khai thác tại Đài Loan. Sản phẩm muôn hình vạn kiểu,
giá cả cũng có nhiều mức khiến cho ai cũng có thể mua một món đồ hợp túi tiền.
Sự chào mời nhiệt tình, giới thiệu kỹ lưỡng bằng ngôn ngữ của khách (tiếng Anh,
Pháp, Nhật, Hàn, Việt…) càng làm cho nhiều du khách khó mà từ chối.
Tại
nhiều trung tâm thương mại, nhà hàng, cửa hàng lớn nhỏ thường có người Việt được
thuê để phục vụ du khách Việt, vì vậy du khách Việt đỡ phần ngại ngần và dễ
dàng “mở hầu bao” mua sắm. Người Việt đã trở nên quen thuộc tại Đài Loan, đa phần
là người trẻ “qua đây đi làm lấy tiền phụ giúp gia đình” bằng lao động hợp tác,
làm osin, giúp việc nơi mua bán hay là những cô dâu Việt… Nơi xứ người mà nghe
thấy tiếng Việt từ nhiều vùng miền trong nước… bỗng thấy nao lòng… Bao giờ người
Việt mình không còn phải theo nhau ra nước ngoài làm thuê dù là một nơi rất gần
quê nhà, như ở Đài Loan?
2.
Là
một thành phố trẻ, Đài Bắc có nhiều địa điểm du lịch gồm một số cảnh quan thiên
nhiên, hệ thống các loại hình bảo tàng, công trình kiến trúc hiện đại nổi tiếng,
chùa, miếu, công viên, chợ đêm… Phần lớn được quy hoạch và xây dựng mới vài chục
năm nhưng nhờ xác định một “chiến lược du lịch văn hóa” nên Đài Bắc đã thu hút
rất nhiều du khách. Bên cạnh đó, Đài Bắc cũng rất chú trọng bảo tồn các di tích
cổ dù tuổi đời chỉ trên dưới trăm năm.
Năm
1886 Đài Loan trở thành một tỉnh thì Đài Bắc duy trì vị trí tỉnh lỵ tạm thời và
chính thức hóa vào năm 1894. Trải qua thời kỳ bị Nhật Bản cai trị và chiến
tranh thế giới thứ hai, tòa thành cổ đã bị người Nhật phá hủy, nhiều di tích
khác mất đi trong quá trình xây dựng thành phố từ nửa sau thế kỷ 20. Cho đến
nay tất cả dấu tích của thành phố từ thời nhà Thanh chỉ còn lại là Bắc môn và
Tây môn, Nam môn và Đông môn đã thay đổi rất nhiều.
“Thừa
Ân môn” là di tích cổng thành phía Bắc, thuộc khu vực Tây Môn Đinh được coi là
một trung tâm và là “khu phố cổ” của Đài Bắc. Đây là một công trình xây bằng đá
cao khoảng 8m, mái ngói thấp có những đầu đao nhỏ, nhọn và ngắn. Công trình có
hai tầng. Tầng trệt cao khoảng 5m ở giữa là cổng lớn hình vòm, phía trong có cầu
thang bằng gỗ đi lên gác từ hai phía, nay hai cửa lên cầu thang bị đóng chặt. Tầng
gác cao khoảng 3m. Mặt chính và mặt sau của tầng gác có 3 cửa sổ: ở giữa hình
tròn và hai bên là hình chữ nhật. Hai mặt bên có hai cửa vòm nhỏ, có lẽ trước
đây mở thông với mặt thành nên có thể nhận biết thành cao tương đương tầng trệt.
Di
tích cổ đứng giữa một công viên nhỏ nhưng trống trải cả bốn phía, xung quanh là
những đại lộ rộng lớn. Thực ra di tích từng bị một cầu vượt che khuất từ năm
1976 đến năm 2016 mới tháo dỡ để bảo tồn di tích. Sau đó, khu vực quanh cổng
thành cổ được xây dựng thành một công viên – bảo tàng nhỏ, gồm có cây cảnh, đá
sắp đặt nghệ thuật, bảng chú dẫn về di tích, sơ đồ thành cổ và những cổng
thành, những tảng đá xây thành, đá nguyên liệu tìm thấy tại đây được trưng bày
tại chỗ cùng một số tác phẩm điêu khắc bằng đá, bảng đồng có chạm khắc hình vẽ
khảo tả cách thức khai thác đá và tạo ra nguyên liệu, một số công cụ bằng sắt đặt
trong hộp kính… Ngoài ra còn có tấm bảng lớn kể về quá trình xây dựng thành cổ
và hình ảnh những vị quan có công trong việc này. Chỉ tham quan di tích này
trong vòng nửa tiếng du khách đã có thể biết được một phần lịch sử của Đài Bắc
và Đài Loan nói chung một cách ngắn gọn, cụ thể và sinh động. Lưu giữ những dấu
ấn “Lịch sử trên đường phố” cũng là cách giáo dục truyền thống có hiệu quả của
nhiều quốc gia.
Chỉ
một cổng thành với kiến trúc chắc chắn nhưng đơn giản, qua cách bảo tồn và làm
“bảo tàng” tại chỗ, việc tạo không gian cảnh quan – có thể coi là khu vực 1 của
di tích – đã nâng cao giá trị của di tích về ý nghĩa lịch sử và mỹ
thuật. Vì nhu cầu giao thông mà trước đây thành phố Đài Bắc đã xây dựng một cầu
vượt phía trước cao ngang cổng thành và che khuất toàn bộ cổng thành cổ, chưa kể
lượng xe qua lại tạo chấn động ảnh hưởng đến độ bền vững của di tích. Nhận biết
ảnh hưởng đó, thành phố đã tháo dỡ cầu vượt, mở rộng con đường phía trước để giải
quyết giao thông đồng thời tạo cho khu vực di tích thành một “vòng xoay” nên có
thể ngắm nhìn sự bề thế của di tích từ mọi phía. Phía sau là những tòa nhà
không cao hơn chiều cao cổng thành cổ, chỉ có một tòa nhà kiến trúc hiện đại,
cao nhưng không “hoành tráng” nên không lấn át “đè lên” di tích. Nhìn tổng thể
về cảnh quan thì “Thừa Ân môn” là điểm nhấn của khu vực này chứ không phải là
tòa nhà hiện đại.
Đây
là một quan điểm trong bảo tồn di sản đô thị mà nhiều quốc gia đã thực hiện: lấy
di tích lịch sử văn hóa là “điểm nhấn” để quy hoạch khu vực xung quanh sao cho
các kiến trúc mới phải phù hợp và làm tôn vẻ đẹp và giá trị lịch sử của công
trình cổ, từ đó toàn bộ khu vực cũng được nâng cao giá trị văn hóa, giá trị
kinh tế cũng tăng theo (địa ốc, thương mại…). Di sãn văn hóa đóng góp cho phát
triển bền vững không chỉ về mặt tinh thần cho con người mà còn cả về vật chất
cho xã hội.
Đài
Bắc, như đã nói ở trên, rất ít di tích kiến trúc cổ xưa, chỉ ở vùng làng quê
còn một số công trình của các tộc người thiểu số nhưng cũng không đến hàng trăm
năm tuổi. Vậy nhưng “du lịch văn hóa” của Đài Loan nói chung và thành phố Đài Bắc
nói riêng rất phát triển, đó là nhờ sự trân trọng lịch sử, việc trùng tu và bảo
tồn công trình cổ một cách khoa học, đồng thời kết hợp khéo léo với quy hoạch
công trình hiện đại nhằm nâng cao giá trị văn hóa của cảnh quan đô thị. Nhờ đó
đã “tạo ra” những di sản đô thị. Tất nhiên, có thể nhận thấy Đài Loan đã sớm
xây dựng một cách khoa học với tầm nhìn lâu dài chiến lược du lịch hướng đến những
giá trị văn hóa bên cạnh việc đáp ứng những nhu cầu khác của du khách như mua sắm,
nghỉ dưỡng, sinh thái…
Một
di tích đẹp và có ý nghĩa như vậy ở trung tâm thành phố Đài Bắc nhưng rất tiếc
hầu như không có tour du lịch của khách Việt nào đến đây. Tại các bảo tàng cũng
ít thấy đoàn du khách Việt trừ vài người khách lẻ loi giữa hàng đoàn du khách
nước ngoài (châu Âu, Mỹ, Úc, Nhật, Hàn). Vẫn biết các công ty du lịch thiết kế
chương trình theo nhu cầu thị hiếu của số đông khách hàng, việc tham quan bảo
tàng hay di tích lịch sử thì cần nhiều thời gian hơn… Nhưng để đa dạng và nâng
cao ý nghĩa văn hóa của du lịch, nên chăng các tour bớt đi một, hai địa điểm
mua sắm ăn uống để dừng chân chỉ 15,20 phút tại những di tích ngay trên đường
phố. Ở đó, tham quan cách thức người ta giữ gìn lịch sử du khách sẽ cảm nhận
sâu sắc hơn về nơi chốn và đất nước ấy. Và khi trở về chắc chắn sẽ trân trọng
hơn di sản văn hóa của đất nước mình.
3.
Dinh
Tổng thống ở thành phố Đài Bắc đặt tại quận Trung Chính, nơi đây là trụ sở
chính cho các cơ quan giúp việc cho Tổng thống và Phó tổng thống Đài Loan. Là một
kiến trúc vào thời Minh Trị do kiến trúc sư Uheiji Nagano thiết kế vào thời kỳ
Đài Loan thuộc đế quốc Nhật Bản (1895–1945), bị hư hỏng nặng do quân đồng minh
ném bom trong Thế chiến thứ hai, tòa nhà đã được khôi phục sau chiến tranh và
trở thành Phủ Tổng thống từ năm 1950. Hiện nay Dinh là tòa nhà hình vuông có bốn
khối nhà và mặt chính có một tháp cao, mái và tường chỉ hai màu trắng và đỏ nâu
trông trang trọng mà khiêm nhường. Bốn phía không có hàng rào ngăn cách với những
đại lộ lớn rợp bóng cây xanh
Theo
chương trình của mọi tour du lịch đến Đài bắc, du khách được đưa đến khu vực
Dinh Tổng thống và chụp hình lưu niệm bên ngoài tòa nhà. Nhưng tiếc rằng khi
tôi đến đây thì tất cả các ngả đường dẫn vào khu vực Dinh đều bị phong tỏa: cảnh
sát kéo những lớp hàng rào chắn ngang và chỉ chừa một lối nhỏ vừa cho người đi
bộ - chắc để cho nhân viên của Dinh vào làm việc. Anh tài xế taxi sau khi vòng
vèo mấy lần quanh đó mà không tìm được đường vào và cũng không được dừng xe,
nói với tôi: chắc lại có biểu tình hay gì đó, thôi bà chịu khó chụp hình từ
trên xe vậy.
Thật
ra tôi đến đây không chỉ để chụp hình lưu niệm như nhiều du khách mà muốn được
tận mắt nhìn thấy một nơi vào năm 2000 đã diễn ra một buổi lễ nhậm chức Tổng thống
rất đặc biệt. Khi buổi lễ bắt đầu, mọi quan khách trong và ngoài nước tưởng sẽ
nghe bài quốc ca Cộng hoà Trung quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả
đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản xứ (thuộc tộc
Nam đảo) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là phần
trình diễn của các bộ lạc bản xứ khác, tiếp theo là bài hát dân ca của người
Hakka (Hẹ hay Khách trú) và dân ca người Holo. Chỉ khi tổng thống Trần Thuỷ Biển
và phó tổng thống bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng thống thì bài quốc ca mới
được cử lên.
Buổi
lễ này là một cái mốc quan trọng về văn hóa – xã hội của Đài Loan, cái mốc cho
thấy sự tôn trọng văn hóa của các tộc người bản địa đã cư trú ở đây hàng ngàn
năm trước khi người Hoa có mặt, sự tôn trọng không chỉ dừng lại ở chủ trương có
từ trước đó mà bắt đầu được thực thi bằng nhiều chính sách cụ thể.
Chỉ
sau gần hai chục năm nhiều tộc người bản địa đã có sự thay đổi đáng kể về đời sống
vật chất và quan trọng hơn là văn hóa truyền thống của họ đã được bảo tồn một
cách tích cực. Du khách đến Đài Nam luôn được giới thiệu đặc sản Trà Ô Long và
nấm Linh chi trên núi A Lỷ Sơn. Hai sản phẩm này được chính phủ quy định chỉ
dành riêng cho một số tộc người bản địa trồng trọt và khai thác, đồng thời hướng
dẫn họ kết hợp lối sống và canh tác truyền thống vào phương thức “du lịch sinh
thái” nhằm vừa bảo tồn vừa phát triển “tài nguyên bản địa” và nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của cộng đồng. Không chỉ có trà và nấm được bán với giá
không rẻ so với sản phẩm cùng loại ở “đại lục” mà còn nhiều nông sản khác được
chế biến phục vụ du lịch, sản phẩm có uy tín vì là “nông sản sạch” không phân
bón, không thuốc trừ sâu và sản xuất bằng máy móc với quy trình khép kín từ
nguyên liệu đến thành phẩm.
Là
thiểu số nên từ khoảng đầu thế kỷ 20 trước làn sóng ồ ạt người Hoa đến Đài
Loan, văn hoá (ngôn ngữ, trang phục, ẩm thức, lối sống…) của nhiều tộc người bản
địa đã bị mai một khi đa số thanh niên cố gắng hoà nhập vào xã hội hiện đại.
Trước nguy cơ văn hóa bản địa biến mất, từ cuối thế kỷ 20 chính phủ đã ban hành
các chính sách khuyến khích văn hoá địa phương, các tổ chức của cộng đồng, tổ
chức phi chính phủ thành lập để phát triển, bảo tồn lịch sử, văn hoá của mọi tộc
người. Bởi vì Đài Loan là một xã hội đa văn hoá, chấp nhận sự đa dạng và cởi mở
giao lưu với nhau giữa các tộc người Austronesian, Hoklo, Hakka và người Hoa ở
lục địa sang là phương thức bảo tồn và phát triển hữu hiệu nhất. Nhiều ca sĩ nổi
tiếng ở Đài Loan và Trung quốc là người bản địa Đài Loan, họ đã góp phần tích cực
vào việc gìn giữ văn hóa tộc người như trình diễn, sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ đồng
thời mang văn hóa hiện đại đến với cộng đồng mình qua những “bản nhạc trẻ” với
lời ca dân gian trình bày bằng tiếng Hoa, tiếng Anh.
***
Do
hoàn cảnh lịch sử nên Đài Loan có rất ít di tích niên đại lên đến vài trăm năm,
chỉ có một số công trình xây dựng từ khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nhưng
cũng đã qua trùng tu nhiều lần do thiên tai, chiến tranh. Vậy nhưng du lịch văn
hóa – tâm linh rất phát triển ở Đài Loan mà đối tượng hướng đến là những đền,
chùa, tháp chỉ mới được xây dựng vài chục năm nay. Từ Đài Nam lên Đài Trung,
Đài Bắc ta có thể nhận biết nhiều công trình như vậy.
Ở
thành phố cảng Cao Hùng có Phật Quang Sơn, ngôi chùa lớn nhất và cũng là bảo
tàng Phật Giáo lớn nhất của Đài Loan, được mệnh danh là “thánh địa Phật Giáo”
sáng lập và hình thành từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Long Hổ Tháp kiến trúc đầy
màu sắc và mang đậm nét văn hóa Đài Loan, là công trình nổi bật nhất trong quần
thể các đền, chùa trên Đầm Liên Trì.
Ở
Nam Đẩu thuộc Đài Trung có Nhật Nguyệt Đàm là hồ nước thiên nhiên lớn nhất Đài
Loan gồm một hồ lớn và một hồ nhỏ liền nhau, được bao bọc bởi màu xanh bạt ngàn
của những dãy núi xung quanh. Hồ Nhật Nguyệt còn được truyền tụng bởi huyền thoại
về việc tìm nơi cư trú của một bộ lạc cổ xưa, từng là điểm nghỉ dưỡng ưng ý nhất
của Tưởng Giới Thạch và vợ là bà Tống Mỹ Linh. Cảnh quan hồ không đẹp hơn những
hồ nước ở Việt Nam nhưng thiên nhiên được bảo tồn khá nguyên vẹn và dịch vụ du
lịch thì rất tốt. Gần đó là Văn võ miếu thờ Quan Công và Khổng tử nổi tiếng
linh thiêng. Ngôi miếu rất lớn nằm ở vị trí nhìn ra hồ Nhật Nguyệt kiến trúc đậm
phong cách Trung Hoa, thu hút khá đông du khách đến thăm viếng, gieo quẻ và cầu
xin những điều tốt lành.
Lên
đến Đài Bắc, ngoài Tòa nhà Taipei 101 nổi tiếng, Khu tưởng niệm Tưởng Giới Thạch
cùng hai Nhà hát hoành tráng, khách sạn 5 sao Grand Hotel sử dụng 250.000 hình
tượng rồng để trang trí, từng được đánh giá là những công trình hàng đầu thế giới,
là những nơi mà du khách ai cũng muốn đến chiêm ngưỡng không chỉ về kiến trúc độc
đáo “hiện đại và truyền thống” mà còn có thể ngắm toàn cảnh từ thành phố đến cảnh
quan thiên nhiên, Đài Bắc còn có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng khác. Dựa vào
“sản phẩm” của thiên nhiên như công viện địa chất Dã Liễu, nơi có những khối đá
bị bào mòn thành những hình thù kỳ dị, nằm ngay sát bên bờ biển, được quy hoạch
thành khu du lịch với hệ thống đường đi, nơi dừng chân chụp hình, rào chắn chỗ
nguy hiểm, hình ảnh và đồ lưu niệm quảng bá về những khối đá đặc sắc như Công
chúa nhỏ, đầu nữ vương… Nơi chỉ là làng nhỏ Thập Phần còn lưu giữ một đoạn đường
xe lửa từ thời Nhật giữa hai dãy phố ngắn, nay chuyên bán đồ lưu niệm, phục vụ
du khách thả đèn lồng cầu may mắn và có thể chiêm nghiệm cảm giác đi xe lửa chạy
bằng đầu máy hơi nước một đoạn đường ngắn. Hay Chùa Long Sơn một kiến trúc hoàn
toàn cổ kính, xây dựng giữa khu phố trung tâm hiện đại nhưng bên trong là không
gian rộng rãi yên bình có thác nước chảy đêm ngày. Khách du lịch nườm nượp, người
đến cúng bái cũng rất đông nhưng tất cả đều tỏ thái độ thành kính…
Sự
“linh thiêng” hay tính chất “truyền thống” ở những địa điểm trên không chỉ do
truyền thuyết mà còn do cách quản lý điều hành tôn trọng những sinh hoạt tôn
giáo, sinh hoạt dân gian và không lấy yếu tố kinh doanh là chính để chi phối.
Nhưng chính vì vậy mà nguồn thu từ du lịch không hề nhỏ, cho thấy giá trị văn
hóa của di tích được “quy đổi” thành giá trị kinh tế một cách hợp lý như thế
nào.
Cùng
với những thắng cảnh thiên nhiên, công trình hiện đại nổi tiếng thế giới, những
cơ sở tôn giáo phục vụ cộng đồng địa phương như đền, chùa, miếu được tăng thêm
giá trị văn hóa nhờ việc xây dựng mới hoặc trùng tu đảm bảo yếu tố kiến trúc
truyền thống, duy trì sinh hoạt tâm linh của dân cư để thu hút du khách, đồng
thời quảng bá bằng du lịch… hiện nay tất cả được coi là di sản văn hóa của Đài
Loan. Ngoài ra còn là hệ thống bảo tàng các loại hình cổ vật, lịch sử, văn hóa,
tự nhiên, kỹ thuật… có thể nói “công nghệ chế tạo di sản” ở Đài Loan chỉ vài chục
năm phát triển đúng hướng đã mang lại hiệu quả kinh tế và tích lũy giá trị văn
hóa ngày càng cao. Không bao lâu nữa chắc chắn sẽ trở thành những di
sản văn hóa thật sự của thế hệ sau.
“Lập
quốc” từ 1949 và luôn phải đối phó với đại lục rộng lớn hùng mạnh và quyết tâm
đưa Đài Loan “trở về đất mẹ”, nhiều nước láng giềng tuy có quan hệ làm ăn nhưng
không công khai thừa nhận như là một quốc gia độc lập, vậy nhưng Đài Loan vẫn
trở thành một trong bốn “con rồng châu Á” về kinh tế và văn hóa thì gìn giữ và
tạo ra được một nền tảng bền vững vừa truyền thống vừa hiện đại. Từ góc độ bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của Đài Loan đã có nhiều bài học, kinh
nghiệm mà nếu chúng ta muốn thì không khó để có thể học được.
Vâng,
cuối cùng vẫn là một vấn đề, “chậm, khó phát triển” hay là “không chịu phát triển”!
Đài
Bắc – Sài Gòn 12/2017
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 24-1-18
No comments:
Post a Comment