Ngoại
trừ các bậc thánh nhân, tiên tri có khả năng thấy xuyên nhiều thời đại, con người,
tuyệt đại đa số, từ hành vi cho đến các phát minh khoa học vẫn không tách rời
khỏi thời đại mình đang sống. Con người vẫn là con người của lịch sử, được quy
định bởi lịch sử, và hành động giới hạn trong giai đoạn lịch sử nhất định mà họ
sống.
Các
nhà lãnh đạo quốc gia phân tích tiên đoán tương lai của một quốc gia dựa trên
các điều kiện kinh tế chính trị quân sự đang diễn ra. Tuy nhiên như lịch sử đã
chứng minh, khi quyết định, phần lớn các lãnh đạo dù độc tài hay chân chính đều
nhìn về quá khứ. Lý do, quá khứ đã được chứng nghiệm giúp cho họ yên tâm và xem
đó nguồn bảo đảm cho quyết định của họ. Kinh nghiệm “thoát Nga” của các quốc
gia vùng Baltic gồm Estonia, Latvia, và Lithuania, sau khi Liên Xô sụp đổ là một
kinh nghiệm quý giá mà người Việt Nam quan tâm đến tiền đồ đất nước cần phải học.
Cộng
hoà Estonia
Estonia
là một nước nhỏ có diện tích 45,226 kilômét vuông, nằm bên bờ biển Baltic trong
vùng Đông Bắc Âu và có một lịch sử rất dài bắt đầu từ nhiều ngàn năm trước Công
Nguyên. Dân số Estonia theo thống kê 2014 cũng chỉ 1 triệu 200 ngàn người nhưng
dân tộc này đã trải qua những chặng đường lịch sử đầy bi tráng.
Vì
giữ vị trí chiến lược nên suốt dòng lịch sử lãnh thổ Estonia đã là bãi chiến
trường giữa các nước lớn trong vùng như Đan Mạch, Đức, Nga, Thụy Điển, Ba Lan.
Estonia bị xâm lăng, chiếm đoạt và sang tay nhiều đế quốc. Đan Mạch cai trị
Estonia suốt thế kỷ 13. Thế kỷ 14 Estonia trở nên một phần của Liên Bang
Livonia. Thế kỷ 16 Estonia rơi vào tay Thụy Điển. Thế kỷ 17 Estonia bị nhượng
cho đế quốc Nga sau chiến tranh Nga-Thụy Điển. Dù chịu đựng âm mưu đồng hóa,
sang nhượng, lệ thuộc, dân tộc nhỏ nhoi vùng Baltic này vẫn không mất gốc.
Vào
thế kỷ 18, tinh thần dân tộc Estonia thức tỉnh và gần cuối Thế Chiến thứ Nhất,
Estonia tuyên bố độc lập vào ngày 24 tháng 2 năm 1918.
Mười
tháng sau, ngày 12 tháng 12 năm 1918 là ngày trọng đại đối với dân tộc Estonia
sau nhiều thế kỷ bị xâm lăng. Hôm đó nhân dân Estonia chính thức được chào quốc
kỳ ba màu xanh, đen, trắng đại diện cho Cộng Hòa Estonia và hát quốc ca “Mu
isamaa, mu õnn ja rõõm” (Quê hương, niềm kiêu hãnh và vui mừng). Một điểm đặc
biệt, quốc ca Estonia cùng giai điệu với quốc ca Phần Lan được nhạc sĩ Fredrik
Pacius phổ từ bài thơ Đất nước tôi (Our Land) của nhà thơ Johan Ludvig
Runeberg. Vì Estonia và Phần Lan chia sẻ nhiều yếu tố văn hóa chung nên Cộng
Hòa Estonia khi thành lập 1918 cũng đã dùng bản nhạc này làm quốc ca.
Độc
lập hòa bình không được bao lâu. Tháng 8 năm 1939, Stalin và Hitler ký thỏa ước
bất can thiệp Molotov-Ribbentrop Pact với những điều khoản bí mật trong đó
Hitler đồng ý để Liên Xô chiếm Estonia cùng với Lithuania và Latvia. Sau khi hiệp
ước được hai tên độc tài ký kết, Stalin đưa quân đội và xe tăng chiếm đóng
Estonia. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Estonia được dựng lên ngày 21 tháng Bảy năm
1940 và đặt dưới sự cai trị trực tiếp bởi đảng CS Estonia, một chư hầu của Liên
Xô.
Hitler
xé bỏ hiệp ước Molotov-Ribbentrop qua việc phát động mặt trận miền Đông tấn
công Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941 và chiếm đóng Estonia từ tháng 7 năm
1941.
Cuối
Thế Chiến thứ Hai, niềm hy vọng phục hồi nền độc lập vừa sáng lên một thời gian
rất ngắn đã vụt tắt khi Estonia lần nữa bị Liên Xô chiếm với sự làm ngơ của Mỹ
và Anh tại hội nghị Yalta.
Hai
chính sách Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Công khai hóa) do Mikhail
Gorbachev giới thiệu vào năm 1985 đã tạo cơ hội cho nhân dân Estonia đứng lên
đòi độc lập. Nhiều chương trình văn nghệ ngoài trời được tổ chức tại thủ đô
Tallinn trong đó bài quốc ca bị cấm cũng đã được nhân dân tự động hát. Các lãnh
đạo độc lập Estonia chính thức công bố lời kêu gọi độc lập Estonia khỏi ách thống
trị của Liên Xô. Cách mạng Hát hùng ca được phát động từ những ngày đêm lịch sử
đó và đã trở thành cơn sóng lớn đánh sụp lâu đài CS xây trên bờ cát phía đông
biển Baltic.
Cộng
hoà Latvia
Chiều
thứ Sáu ngày 6 tháng 9, 1991 các báo lớn trên khắp thế giới loan tin “Moscow
chính thức công nhận quyền độc lập của ba quốc gia Lithuania, Latvia và Estonia
sau nửa thế kỷ kiểm soát.” Ngoại trưởng Liên Xô Boris N. Pankin tuyên
bố “Chúng tôi công nhận chủ quyền độc lập của ba quốc gia vừa tách rời
khỏi Liên Bang Xô Viết. Chúng ta đang chứng kiến một biến cố lịch sử ngay tại
thời điểm này.” Lời tuyên bố của Ngoại trưởng Liên Xô phát ra khi 250
ngàn quân Xô Viết vẫn còn đóng trên lãnh thổ ba quốc gia vùng Baltic: Latvia,
Estonia và Lithuania.
Không
tính 200 năm dưới sự cai trị hà khắc của các triều đại Nga Hoàng, thời gian từ
1939 đến 1990 là một thời gian khủng khiếp để một dân tộc với dân số chưa đến 2
triệu như Latvia phải chịu đựng từ Stalin sang Hilter, trở lại Stalin và thời kỳ
CS sau đó.
Năm
1939, Stalin thỏa thuận với Hitler qua hiệp ước bất can thiệp
Molotov–Ribbentrop xua quân chiếm đóng Latvia. Phần lớn sĩ quan cao cấp trong
quân đội Cộng Hòa Latvia đều bị giết chết. Hầu hết các lãnh đạo và viên chức
chính phủ Cộng Hòa đều bị bắt và đày sang các trại tù miền Trung Á.
Năm
1941, khi Hitler xé hiệp ước Molotov–Ribbentrop mở Mặt trận Miền Đông tấn công
Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic rơi vào tay Hilter nhanh chóng. Latvia chịu đựng
dưới chính sách hà khắc của Hitler. Lần này, không chỉ người Latvia mà nhất là
người Latvia gốc Do Thái trở thành mục tiêu trấn áp. Theo các thống kê, chỉ còn
10 phần trăm dân Latvia gốc Do Thái sống sót sau Thế Chiến thứ Hai.
Khi
Hitler thua, Stalin trở lại, cưỡng chiếm và sau đó sáp nhập Latvia vào Liên Xô.
Khoảng 136 ngàn người Latvia bị kết tội là “kẻ thù nhân dân” và bị đày đến các
tại tập trung lao động khổ sai nhiều nơi trên vùng Trung Á và Siberia. Tài sản
bị tịch thu. Ruộng đất bị tước đoạt. Các hình thức xét xử gọi là “Tòa án nhân
dân” được dựng lên khắp nơi. Khi Stalin chết, Nikita Khrushchev lên và cho phép
dân Latvia lưu đày được trở về nguyên quán, nhưng quá trễ, phần đông đã chết
trong tù đày.
Trong
trường học, thỏa hiệp Molotov–Ribbentrop, chiếm đóng vùng Baltic không được nhắc
đến và triết học Mác Lê là môn học chính. Một tầng lớp Latvia phản quốc được
Liên Xô đào tạo để phục vụ cho chế độ CS. Đảng CS Latvia lúc đầu chỉ 400 đảng
viên đã phát triển thành một tập đoàn tham nhũng, bán nước, tiếp tay với CS
Liên Xô đày đọa chính đồng bào mình. Chính thành phần phản quốc trong cái gọi
là “Quốc hội Latvia” đã bỏ phiếu sáp nhập Latvia vào Liên Xô.
Nhưng
dân tộc Latvia và Cộng Hòa Latvia vẫn sống, vẫn tồn tại. Ngày 27 tháng Hai,
1990, cả nước Latvia chào lá quốc kỳ hai màu trắng và huyết dụ được khai sinh
trong thời kỳ độc lập 1918. “Cờ tổ quốc” nền đỏ búa liềm với ngôi sao vàng CS bị
ném vào sọt rác của quá khứ đáng quên.
Cộng
hoà Lithuania
Sau
thời gian nhiều thế kỷ dưới chế độ bộ lạc và phong kiến, Lithuania đoàn kết dưới
thời vua Mindaugas năm 1251. Thông qua hôn nhân, một trong những vua sau đó
cũng là vua của Ba Lan. Lithuania kết hợp với Ba Lan thành Cộng đồng Ba Lan-
Lithuania (Polish–Lithuanian Commonwealth) năm 1569.
Sau
hơn hai thế kỷ tồn tại, Cộng đồng Ba Lan-Lithuania tan rã năm 1795 và phần lớn
lãnh thổ Lithuania rơi vào tay Nga. Sau Thế Chiến thứ Nhất, Lithuania tuyên bố
độc lập và nước Cộng Hòa Lithuania chính thức ra đời ngày 16 tháng 2, 1918. Năm
1922, Hoa Kỳ công nhận Lithuania.
Tháng
6, 1940, sau khi gởi một tối hậu thư ngắn, Liên Xô tiến chiếm Lithuania. Năm
1941, Hitler đánh bật Liên Xô và chiếm đóng Lithuania. Vào giai đoạn cuối của
Thế Chiến thứ Hai, Liên Xô phản công Đức và tái chiếm đóng Lithuania, sau đó
sáp nhập vào Liên Xô cho đến khi Lithuania được phục hưng vào tháng 2, 1990.
Dân
số hiện nay của Lithuania là 2.9 triệu người. Lithuania là hội viên của Liên Hiệp
Châu Âu (EU), Hội Đồng Châu Âu (CoE) và Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tổng
sản lượng nội địa (GDP): 82.4 tỉ Mỹ kim, GDP theo đầu người: 28,359.00 Mỹ kim.
Cách
mạng dân chủ được viết bằng xương máu của những người đã đổ xuống trong thời điểm
lịch sử nhưng giữ được lâu dài nhờ những nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa vào tương
lai đất nước.
Vytautas
Landsbergis và phong trào Sajudis
Người
viết đã có dịp giới thiệu tầm nhìn của một số chính khách như Nelson Mandela,
Mustafa Kemal Atatürk v.v… Lần này xin giới thiệu Tiến sĩ Vytautas Landsbergis,
giáo sư âm nhạc và là nhà lãnh đạo đầu tiên của Cộng Hòa Lithuania sau Cộng Sản.
Vytautas
Landsbergis là một tấm gương soi, một bài học quý giá về tầm nhìn đất nước, nhất
là các nước nhỏ phải tồn tại và vươn lên bên cạnh một nước lớn đầy tham vọng.
Người dân Lithuania gọi Vytautas Landsbergis là con người định hướng đi cho đất
nước.
Giáo
sư Vytautas Landsbergis sinh ngày 18 tháng 10, 1932 tại Kaunas, Lithuania. Ông
tốt nghiệp Học Viện Âm Nhạc Lithuania năm 1955 và năm 1969 ông trình luận án Tiến
sĩ Âm Nhạc. Từ năm 1978 đến năm 1990 ông là giáo sư âm nhạc tại Học Viện Âm Nhạc
Lithuania và Đại học Vilnius Pedagogical. Giáo sư Vytautas Landsbergis là một
trí thức nổi bật trong Phong trào Sajudis được thành lập năm 1988 với mục đích
tối hậu là đưa Lithuania ra khỏi xích xiềng Cộng Sản Liên Xô. Ông được bầu làm
chủ tịch của phong trào.
Phong
trào bắt đầu bằng những hoạt động phi chính trị như yêu cầu ngưng xây dựng nhà
máy hạt nhân, ủng hộ các cải cách văn hóa, xã hội, kinh tế của Mikhail
Gorbachev. Nhóm bắt đầu chỉ với 35 thành viên, phần đông là văn nghệ sĩ, một số
trong nhóm từng là đảng viên đảng Cộng Sản Lithuania. Phong trào Sajudis tổ chức
nhiều cuộc tập hợp lớn, trong đó có buổi tập hợp với hàng trăm ngàn người tham
dự đánh dấu ngày Hitler và Stalin ký kết Hiệp ước Molotov-Ribbentrop Pact cưỡng
chiếm ba nước nhỏ vùng Baltic trong đó có Lithuania.
Phong
trào Sajudis mỗi ngày thêm lớn mạnh và được sự ủng hộ của dân chúng. Đảng CS
Lithuania bị cô lập dần và cuối cùng đồng ý từ bỏ độc quyền cai trị. Cuộc bầu cử
quốc hội tự do được tiến hành vào tháng 2, 1990 và Phong trào Sajudis chiếm được
101 trong số 141 ghế đại biểu quốc hội. Thời kỳ đó Lithuania chưa bầu tổng thống
hay đề cử thủ tướng. Vytautas Landsbergis được bầu làm Chủ tịch Quốc Hội và
theo hiến pháp tạm thời, ông là Chủ tịch của Hội Đồng Tối Cao và được xem như
Quốc trưởng của Cộng Hòa Lithuania vừa được hồi sinh.
Tháng
3, 1990, Lithuania tuyên bố độc lập. Nhiệm vụ lịch sử của Phong trào Sajudis được
xem như hoàn thành. Các thành viên của phong trào, có người ở lại, có người ra
đi, có người thành lập các đảng phái tổ chức riêng.
Năm
1993, Vytautas Landsbergis và một số thành viên Phong trào Sajudis thành lập đảng
chính trị Homeland Union (Tėvynes Sąjunga). Đảng Homeland Union thắng lớn trong
cuộc bầu cử quốc hội lần thứ hai và Giáo sư Vytautas Landsbergis lần nữa là Chủ
tịch Quốc Hội nhiệm kỳ 1996-2000. Khi Lithuania gia nhập Cộng đồng Âu Châu năm
2004, ông được bầu vào Quốc hội Âu Châu và được tái đắc cử năm 2009.
Vytautas
Landsbergis và tầm nhìn về lãnh thổ
Hôm
đó là ngày 29 tháng 7, 1991, hai phái đoàn đại diện hai nước cộng hòa vừa được
tái lập, Cộng Hòa Lithuania do Quốc trưởng Vytautas Landsbergis cầm đầu và Cộng
Hòa Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Boris Yeltsin, gặp nhau để ký thỏa hiệp
công nhận và hợp tác giữa hai nước.
Khi
hai bên sắp ký, Boris Yeltsin bỗng chỉ thị các nhân viên phái đoàn Nga rút một
câu ra khỏi bản văn của thỏa hiệp trong đó thừa nhận Liên Xô vào tháng 6, 1940
đã sáp nhập Lithuania vào Liên Xô một cách phi pháp.
Vytautas
Landsbergis đứng dậy nhìn thẳng Boris Yeltsin và nói “Boris
Nikolayevich, ông là một người đứng đắn, chúng ta đã đồng ý với nhau điều đó rồi.” Boris
Yeltsin đáp “Vâng, chúng ta đã đồng ý, vấn đề này không bàn nữa.”
Với
một người bình thường, sự kiện Lithuania từng bị Liên Xô sáp nhập có thể không
còn đáng để bàn. Trước mắt mọi người lịch sử đang bước sang một chương mới,
Liên Xô tan rã, cả phong trào CS Đông Âu đang sụp đổ, cộng hòa Lithuania hồi
sinh và được hàng trăm quốc gia công nhận. Cả hai dân tộc nên nhìn về tương lai
thay vì nhìn lại quá khứ. Nhắc lại chuyện cũ để làm gì.
Nhưng
không. Vytautas Landsbergis phản đối Boris Yelstin bởi vì ông là một lãnh đạo
nhìn xa trông rộng. Boris Yeltsin, một phần có cảm tình với phong trào độc lập
của Lithuania nhưng phần lớn hơn muốn dùng Lithuania để chống Mikhail Gorbachev
nên đã đồng ý thừa nhận Liên Xô cưỡng chiếm Lithuania trong lần gặp Vytautas
Landsbergis trước đó ở Moscow. Tuy nhiên, đó chỉ là lời hứa miệng, không có gì
để bảo đảm các nhà lãnh đạo Nga sau này cũng cam kết giống như Yeltsin nếu
không có một văn bản được lãnh đạo hai quốc gia cùng ký.
Về
mặt quốc tế, Nga cũng thừa hưởng mọi vị trí của Liên Xô đã giữ trước khi sụp đổ
như vai trò trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, các hiệp ước quốc tế Liên Xô
đã ký và chủ quyền lãnh thổ mà Liên Xô đang tranh chấp với các nước láng giềng.
Do đó, nếu không có chữ ký của Yeltsin, Lithuania đã vướng vào một cuộc tranh
chấp lãnh thổ và do đó không đủ tiêu chuẩn để gia nhập Liên Hiệp Châu Âu hay
NATO. Trong văn khố của Nga vẫn còn các văn bản, dù bất bình đẳng, trong đó
chính phủ Lithuania vào năm 1940 đã chấp nhận lệ thuộc vào Liên Xô. Xa hơn,
Vladimir Putin có thể cho rằng Lithuania chưa bao giờ chính thức là một nước độc
lập mà vẫn là một phần của Đế Quốc Nga như trước Thế Chiến thứ Nhất.
Vytautas
Landsbergis và tầm nhìn về xu hướng chính trị thời đại
Hôm
đó là ngày 25 tháng 12, 1991. Aleksandr Ivanovich, sĩ quan phụ trách trạm canh
Điện Kremlin rời trạm canh đi ăn cơm tối. Khi anh đi lá cờ đỏ sao vàng với hình
búa liềm vẫn còn bay trong gió chiều của mùa đông Moscow, nhưng khi anh trở lại
và ngạc nhiên khi thấy lá cờ đã bị hạ xuống và thay vào đó lá quốc kỳ Cộng Hòa
Nga ba màu trắng, xanh, đỏ vừa được ai đó kéo lên.
Anh
Aleksandr không xem TV nên không biết Liên Xô chính thức cáo chung vào lúc 7 giờ
12 phút tối ngày 25 tháng 12, 1991 sau khi Mikhail Gorbachev chấm dứt diễn văn
từ chức và quốc kỳ Cộng Hòa Nga được treo trước tòa nhà Hội Đồng Bộ Trưởng lúc
7 giờ 45 phút tối. Không chỉ riêng anh Aleksandr mà nhiều triệu dân Moscow cũng
không quan tâm nhiều đến những gì đang diễn ra trên đất nước họ. Ngoài trừ tiếng
chuông trên tháp Spassky Tower của Điện Kremlin vang lên báo hiệu một thay đổi
lớn, phần đông người dân Nga bàng quan với giờ phút lịch sử của đất nước mình.
Không ai hoan hô và cũng không ai đả đảo.
Ngày
25 tháng 12, thật ra, chỉ là ngày trên danh nghĩa, trên giấy tờ và thực tế Liên
Xô đã chấm dứt tồn tại ba tuần trước đó tại nhà nghỉ trong khu rừng Białowieża ở
Belarussia. Tại đó, đại diện ba nước cộng hòa Nga, Ukraine và Belarus ký hiệp ước
tuyên bố giải thể chế độ CS Liên Xô và thành lập Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập
(Commonwealth of Independent States, gọi tắt là CIS).
Hiệp
ước CIS bắt đầu bằng câu khẳng địmh “Liên Xô trên bình diện luật quốc tế
cũng như thực tế địa lý chính trị đã ngừng tồn tại.” Các nước
Azerbaijan, Armenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan,
Uzbekistan, Gruzia sau đó cũng đã ký vào hiệp ước này, nâng tổng số lên 12 nước
thành viên.
Thời
điểm khi Liên Xô tan rã là thời điểm vô cùng quan trọng cho 15 nước thuộc Liên
Xô để chọn một hướng đi. Họ chỉ có hai con đường để chọn. Gia nhập CIS có nghĩa
là chọn đi về hướng Đông hay hướng Nga và từ chối CIS tức chọn đi về hướng Tây
hay hướng thế giới tự do.
Vytautas
Landsbergis và hai nhà lãnh đạo của Latvia và Estonia từ chối lời mời của Boris
Yeltstin để tham gia hội nghị thành lập CIS. Ba quốc gia Latvia, Lithuania và
Estonia ngay từ đầu đã không muốn liên hệ trực tiếp hay gián tiếp gì đến Nga và
CIS. Thái độ của Vytautas Landsbergis trong thời gian giành độc lập 1990 đã dứt
khoát với quá khứ Cộng Sản và lệ thuộc vào Nga dưới bất cứ hình thức nào. Ông
chọn hướng đi dân chủ tây phương cho nền cộng hòa non trẻ Lithuania.
Vytautas
Landsbergis về cá nhân không có nhiều cảm tình với Anh, Mỹ, Pháp. Trong lịch sử
cận đại các cường quốc phương Tây đã hơn một lần bỏ rơi họ. Trong suốt 50 năm,
các cường quốc Tây Phương cũng chưa hề công khai lên tiếng tố cáo Liên Xô đã
chiếm đóng Lithuania. Sự thật cay đắng đó đến nay vẫn còn được nhắc. Tuy nhiên,
cảm tình thương ghét là chuyện của cá nhân, còn hướng đi của dân tộc và thời đại
là chuyện của đất nước. Ông đã chọn đi cùng đất nước.
Những
bài học đau thương của các thế hệ Lithuania trong thời gian dài lệ thuộc dưới
ách cai trị của Đế Quốc Nga là những lời khuyên dành cho Vytautas Landsbergis
và các lãnh đạo Baltics biết nên tránh Nga càng xa càng tốt và càng sớm càng tốt.
Các điều khoản về bình đẳng quyền hạn và trách nhiệm trong hiệp ước thành lập
CIS chỉ có trên giấy tờ. Gia nhập CIS là rơi vào chiếc bẫy bành trướng truyền
thống của Nga.
Vytautas
Landsbergis và chủ trương “thoát Nga”
Trong
diễn văn trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 28 tháng 9, 1992 Vytautas
Landsbergis tố cáo những khái niệm mà các lãnh đạo Nga hay dùng như “biên giới
gần” hay “xung đột trong các quốc gia vùng Baltic” vẫn còn trong suy nghĩ của
các lãnh đạo Nga sau CS. Đó là những lý do giới lãnh đạo Nga viện dẫn để can
thiệp vào nội bộ Latvia, Lithuania và Estonia. Chủ trương bành trướng truyền thống
đã có từ thời các Nga Hoàng, sang Cộng Sản và sau Cộng Sản.
Phương
pháp “thoát Nga” duy nhất là dân chủ hóa đất nước nhanh chóng để qua đó hội nhập
vào dòng phát triển của kinh tế Châu Âu. Ngay sau khi độc lập một hiến pháp dân
chủ được công bố vào tháng 10, 1992 và các chính sách tư hữu hóa nền kinh tế được
thực hiện sau đó để mong đuổi kịp các quốc gia phát triển.
Ngày
2 tháng 6, 1993, ba nhà lãnh đạo Baltics gặp nhau tại Jurmala, Latvia để soạn
thảo chung một thỉnh nguyện thư gởi EU để được tham gia với tư cách thành viên
phụ (Associate Members). Các nước Baltics phát hành tiền tệ riêng, đòi hỏi dân
các quốc gia CIS phải có visa mới được nhập cảnh và chi tiết đến mức thay đổi số
điện thoại vùng để tránh nhầm lẫn với CIS.
Vấn
đề khó khăn nhất phải đàm phán với Nga là sự hiện diện của nhiều sư đoàn quân
Nga trên lãnh thổ Baltics. Không giống trường hợp Đông Đức hay các nước Đông
Âu, quân đội Nga có mặt trên lãnh thổ Baltics là kết quả của hiệp ước 1940. Dù
bất bình đẳng, các quốc gia này đã chấp nhận để quân đội Liên Xô đồn trú trên
lãnh thổ quốc gia họ. Vytautas Landsbergis nhắc lại và nhấn mạnh với phái đoàn
Nga chính Boris Yeltsin đã thừa nhận trong hiệp ước 1991 rằng Liên Xô đã cưỡng
chiếm vùng Baltics một cách phi pháp, do đó, quân đội Nga phải rút ra khỏi ba
nước Baltic. Nga buộc phải rút quân.
Chọn
lựa đi về hướng Tây của Lithuania là một chọn lựa khôn ngoan, đúng lúc. Không
giống như trường hợp Georgia phải trải qua nhiều xung đột với Nga cho tới 2009
mới rút chân ra khỏi CIS với nhiều thương tích.
Vytautas
Landsbergis và tầm nhìn về an ninh chiến lược
Lúc
1 giờ chiều ngày 29 tháng 3, 2004 tại Washington DC, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Colin
Powell thay mặt Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) chấp nhận bảy quốc gia hội
viên mới gồm Bulgaria, Estonia, Latvia, Lithuania, Romania, Slovakia và
Slovenia. Đây là lần thứ năm NATO mở rộng và nâng tổng số hội viên lên đến 26
quốc gia.
Vytautas
Landsbergis luôn nhấn mạnh Lithuania là một phần của Châu Âu và hội nhập vào
dòng sống của Châu Âu là một định hướng căn bản trong nhận thức chính trị của
ông. Vytautas Landsbergis phát biểu tại Bỉ năm 1997 “Khi đứng bên bờ biển
Baltic, người dân Lithuania luôn nhìn về hướng Tây.” Hai tổ chức mà
Vytautas Landsbergis luôn nhắm tới để trở thành hội viên ngay từ đầu là Cộng đồng
Châu Âu và NATO. Năm 2004, Lithuania hoàn thành cả hai mục đích.
Khối
quân sự Warsaw chết không kèn, không trống vào ngày 25 tháng 2, 1991 tại
Budapest, Hungary khi chỉ còn 5 quốc gia thành viên. Từ đó, Nga không có một
liên minh quân sự nào đủ khả năng làm đối trọng với NATO. Các nhà chiến lược
Nga tiên đoán sau Hungary, Ba Lan và Tiệp, sớm hay muộn các nước Đông Âu còn lại
cũng sẽ trở thành hội viên của NATO. Tuy nhiên, các quốc gia vùng Baltic thì
khác. Sự kiện ba nước Baltics gia nhập NATO đã làm Nga giận dữ và công khai chống
đối. Không giống các nước Đông Âu, các quốc gia Baltics vốn là một phần của Nga
và sau đó là Liên Xô và chưa có quốc gia nào vốn thuộc Liên Xô tham gia NATO.
Nga còn viện dẫn mặc dù đã rút quân nhưng các căn cứ quân sự của Liên Xô và sau
đó Nga xây dựng vẫn còn trên lãnh thổ Lithuania. Chính phủ Lithuania cho Nga biết
những căn cứ đó quá lạc hậu và không đủ tiêu chuẩn NATO.
Các
lãnh đạo Nga từ Yeltsin và về sau, dĩ nhiên, muốn Lithuania là một nước trung lập
nhưng lịch sử đã cho Vytautas Landsbergis thấy trung lập chỉ có trên danh nghĩa
chứ không phải trên thực tế. Tháng 9, 1939, khi Hitler phát động Thế Chiến thứ
Hai, Lithuania tức khắc tuyên bố trung lập nhưng kết quả đã bị hai chế độ độc
tài Stalin và Hitler thay phiên nhau dày xéo trên mảnh đất chỉ 25 ngàn cây số
vuông và kết quả khoảng một phần ba dân số bị giết, bị đày ải hay thất lạc
trong suốt thời gian bị ngoại xâm chiếm đóng.
Việc
Lithuania gia nhập NATO cũng gây nên rất nhiều tranh luận cho chính giới của quốc
gia này nhưng Lithuania cần sự bảo vệ dưới một hàng rào an ninh tập thể Châu
Âu. Đó là ý do chính yếu và là một chọn lựa sống còn. Thủ tướng Ba Lan
Alexandre Kwasnewski trả lời báo chí rằng quốc gia ông gia nhập NATO có cùng lý
do như các nước khác không muốn rời NATO. Chủ quyền của Lithuania không thể được
bảo vệ nếu chỉ đứng nhìn Châu Âu như một người khách lạ.
Bốn
thành quả hội nhập và thăng tiến của Lithuania
Phân
tích tiến trình phát triển của Lithuania cho thấy có bốn thành quả giúp quốc
gia này để giành độc lập, hội nhập và thăng tiến gồm:
1.
Dân chủ hóa đất nước,
2.
Đoàn kết dân tộc,
3.
Chiến lược hóa vị trí của quốc gia
4.
Tham gia các liên minh quân sự đáng tin cậy.
Bốn
điều kiện tiền đề đó của Lithuania hoàn toàn thích hợp với trường hợp Việt Nam
khi đương đầu với Trung Cộng mà người viết đã trình bày trong chính luận “Để thắng
được Trung Cộng”
Dân
chủ. Ngay trong ngày tuyên bố độc lập 11 tháng 3, 1990, quốc hội vừa được bầu với
phong trào độc lập Sajudis chiếm đa số đã công bố một hiến pháp tạm thời để điều
hành guồng máy quốc gia. Vytautas Landsbergis, chủ tịch quốc hội và lãnh đạo tối
cao của quốc gia thời đó công bố hàng loạt cải cách chính trị để dân chủ hóa Lithuania
bởi vì đối với các quốc gia dân chủ tiên tiến Châu Âu, dân chủ là tiền đề để đối
thoại và là điều kiện tiên quyết để hội nhập. Một hiến pháp khác phối hợp các đặc
điểm dân chủ từ các hiến pháp Mỹ, Pháp với truyền thống văn hóa Lithuania ra đời
25, tháng 10, 1992. Mặc dù có nhiều tranh chấp chính trị nội bộ, các mục tiêu cải
cách dân chủ và độc lập từ Nga không thay đổi trong nhận thức của các nhà lãnh
đạo Lithuania.
Việt
Nam dân chủ và dân chủ trước Trung Cộng. Phần đông các nhà phân tích chính trị
Việt Nam đồng ý rằng Việt Nam phải có dân chủ mới bảo vệ được đất nước. Điều đó
đúng nhưng cần phải nói thêm, dân chủ không chỉ giúp bảo vệ đất nước mà còn để
thắng được Trung Cộng. Ngoài ra, dân chủ phải đến sớm, đừng đợi đến khi chiến
tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến.
Chỉ
có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập trung được sức mạnh
tổng hợp của dân tộc và là nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu
dài. Trung Cộng không sợ USS George Washington hay bom nguyên tử mà sợ dân chủ
và rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Vũ khí dân chủ sẽ gây một
phản ứng dây chuyền dẫn tới sự tan vỡ toàn bộ cơ chế CS. Một Trung Cộng mênh
mông có nguy cơ tan thành nhiều mảnh, chủ quyền ngay tại lục địa còn không giữ được
nói chi là chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa, Trường Sa xa xôi.
Đoàn
kết dân tộc. Phong trào Sajudis bắt đầu chỉ với 35 người nhưng tập hợp được nhiều
trăm ngàn người dân Lithuania bởi vì họ theo đuổi một mục đích chung, cụ thể,
và khả thi, đó là giành độc lập. Sau thời kỳ độc lập, phong trào Sajudis tự
nguyện phân chia thành nhiều tổ chức khác nhau nhưng trong giai đoạn hai năm từ
1989 đến 1991, Sajudis chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất là tháo xích xiềng
CS Liên Xô. Niềm khao khát lớn nhất của người dân Lithuania trong giai đoạn này
là “thoát Cộng” và vì thế họ đã đoàn kết sau lưng phong trào Sajudis. Con đường
“thoát Cộng” rất gian nan và những thay đổi kinh tế chính trị cũng đã rất khó
khăn nhưng chỉ trong vòng hơn mười năm Lithuania đã đáp ứng mọi tiêu chuẩn của
EU và NATO đề ra để trở thành hội viên của cả hai tổ chức uy thế nhất Châu
Âu.
Dân
chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm tạo sự tin cậy nơi các
nước dân chủ Tây Phương nhưng quan trọng nhất là nền tảng của đoàn kết dân tộc.
Một
dân tộc chia rẽ không thắng được ai. Đây là thời điểm để xác định lại lòng yêu
nước. Yêu nước ngày nay không phải là sản phẩm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan
hay bùa mê CS mà gắn liền với với quyền lợi sống còn của đất nước và hướng đi
dân chủ nhân bản của thời đại.
Chủ
động chiến lược hóa vị trí quốc gia. Ba quốc gia Baltics giữ một vị trí chiến
lược như cạnh sườn phía tây của Châu Âu trên bờ biển Baltic. Tuy nhiên, cũng vì
vị trí chiến lược này mà ba nước đã luôn là chiến trường của các đế quốc. Trong
suốt hàng trăm năm, Nga và Thụy Điển tranh nhau kiểm soát đường ra biển Baltic
đã sử dụng các quốc gia Baltics như một bãi chiến trường.
Vị
trí chiến lược, vì thế, chưa đủ nhưng phải đặt đúng vị trí trong tương quan
chính trị và quân sự trong vùng. Lithuania ngày nay là một phần không thể tách
rời trong toàn bộ chiến lược của NATO. Không giống như thời trước hai cuộc thế
chiến, Lithuania ngày nay đóng một vai trò quan trọng và hỗ tương trong việc bảo
vệ an ninh và ổn định của Châu Âu.
Việt
Nam chỉ trở thành một vị trí chiến lược sau khi Trung Cộng thôn tính toàn lục địa
Trung Hoa 1949 nhưng trước đó thì không. Tương tự, Ai Cập trước 1976 không quan
trọng hơn Thổ Nhĩ Kỳ hay Iran nhưng sau khi Tổng thống Anwar Sadat bỏ đồng minh
Liên Xô để bước sang phía thế giới tự do, Ai Cập trở nên một đồng minh chiến lược
của Hoa Kỳ ở Trung Đông và được viện trợ ít nhất 1.5 tỉ Mỹ kim hàng năm từ đó đến
nay. Vì lợi ích kinh tế cũng như về các giá trị nhân quyền, Hoa Kỳ mong muốn được
thấy Trung Cộng trở thành một quốc gia dân chủ trong một châu Á và Thái Bình
Dương ổn định.
Trung
Cộng là nhà băng của nhiều quốc gia trên thế giới kể cả Mỹ, nhưng không giống
như các công ty tài chánh Lehman Brothers hay Merrill Lynch, khủng hoảng chính
trị tại Trung Cộng sẽ gây tác hại vô cùng trầm trọng đối với nền kinh tế thế giới
không thể đo lường được.
Biết
chủ động chiến lược hóa, quốc tế hóa, quan trọng hóa vị trí của quốc gia cũng
như biết khai thác mối lo của cường quốc sẽ làm cho vị trí của quốc gia quan trọng
hơn trong tranh chấp quốc tế. Trái lại, chủ trương của lãnh đạo CSVN “không
tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào,
không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước
này để chống nước kia” là chủ trương tự cô lập, không đúng về lý thuyết
lẫn thực tế chính trị và sẽ chết tức tưởi trong cô đơn mà không được ai ngó
ngàng.
Đoàn
kết với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh đáng tin cậy: Trong
khi nhiều nước Châu Âu còn do dự, TT George Bush đã công khai ủng hộ quan điểm
cứng rắn của Lithiunia đối với Nga và sau này cũng chính TT George Bush đã ủng
hộ ba quốc gia Baltics gia nhập NATO. Đáp lại, các quốc gia Baltics đã nhiệt
thành ủng hộ và đóng góp quân sự vào các cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ phát động,
cụ thể qua chiến tranh Iraq ngay cả trước khi các nước này gia nhập NATO. Các
lãnh đạo Lithuania ý thức liên minh đáng tin cậy đã trở thành lá chắn vô cùng cần
thiết để bảo vệ quốc gia họ và những hy sinh mà họ cần phải đáp lại.
Không
giống như Belarus còn chìm trong độc tài lệ thuộc vào Nga hay Georgia, Ukraine
quá chậm nên trễ chuyến tàu, Lithiunia đã “thoát Cộng” và có những chỗ dựa quốc
tế vững vàng để “thoát Nga.”
Thành
quả đó trước hết nhờ tài lãnh đạo của Giáo sư Vytautas Landsbergis. Ông không
thuộc đảng phái nào trước cả và cũng chưa hề làm chính trị nhưng ông có tầm
nhìn xa rộng. Tuy nhiên chỉ có tầm nhìn của riêng cá nhân ông thôi chưa đủ mà
còn cần phải có tầm nhìn chung của cả dân tộc. Trong giờ phút khó khăn và thử
thách, đa số dân Lithuania đã bỏ phiếu cho ông, đã chọn ông làm người lãnh đạo
và đã đứng sau ông.
Việt
Nam đang đứng trước những ngả ba, ngả năm trong bang giao quốc tế nhưng dù bao
nhiêu ngả cũng chỉ có thể đi trên một con đường trong một thời điểm nhất định.
Sự liên minh khôn khéo trong nhiều trường hợp giúp quốc gia tránh được chiến
tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh.
Giáo
sư Alastair Smith thuộc đại học Washington University đã công thức hóa toán học
nhiều mô thức liên minh trong lịch sử bang giao quốc tế và kết luận các quốc
gia có những liên minh không đáng tin cậy sẽ dễ bị tấn công hơn là các quốc gia
có sự liên minh tin cậy. Hiện nay tại Á Châu có bốn liên minh quân sự gồm ba
liên minh tin cậy Mỹ-Nhật, Mỹ-Phi, Mỹ-Nam Hàn và liên minh SCO về biên giới gồm
Trung Cộng, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga, Tajikistan và Uzbekistan.
Khi
chảo dầu Á châu được đun nóng hơn, nhiều liên minh quân sự mới tương tự như Tổ
chức Liên phòng Đông Nam Á (SEATO) trong thời chiến tranh Việt Nam sẽ ra đời. Đối
với Hoa Kỳ, vùng biển Đông Á là huyết mạch kinh tế lẫn an ninh của các nước đồng
minh với Hoa Kỳ như Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines, Indonesia, liên minh được với
Hoa Kỳ vừa có thể thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa đất nước vừa bảo đảm an
ninh. Nhưng liên minh chiến lược chỉ có thể thực hiện trên cơ sở của một chế độ
dân chủ.
Việt
Nam Cộng Sản không so sánh được với Lithuania về cả thế lẫn lực. Lãnh đạo CSVN
là một đám mù lòa theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Khả năng CSVN tự chuyển hóa
sang một cơ chế dân chủ là điều không thể diễn ra.
Thật
vậy, giữa lúc số phận của đất nước như chỉ mành treo chuông, lãnh đạo đảng thay
vì tập trung ngân sách vào việc tăng cường quốc phòng lại lo đi xây những tượng
đài tôn thờ lãnh tụ mà các quốc gia cựu CS đang khổ sở không biết làm sao đập đổ
cho hết.
Giữa
một đất nước còn quá lạc hậu về mọi mặt, nghèo đói, tụt hậu kỹ thuật so với các
quốc gia tiên tiến hàng thế kỷ, lãnh đạo CSVN chỉ biết ăn, biết tham nhũng, biết
sống xa hoa trên máu xương đồng bào. So sánh cảnh trang hoàng nội thất của cựu
TBT CS gốc thợ rừng Nông Đức Mạnh và cảnh hàng ngàn học sinh khắp ba miền phải
lội sông, đu dây đi học mỗi ngày để thấy các lãnh đạo CSVN quả thật đui về thị
giác và mù tận đáy lương tâm.
Một
trong những lý do Cộng Hòa Lithuania sớm trở thành hội viên NATO dù với một
quân đội hiện dịch chỉ vỏn vẹn 15 ngàn người bởi vì quốc gia này cam kết xây dựng
một chế độ dân chủ toàn diện. Lithuania có dân chủ trước Nga và các quốc gia
thuộc khối Liên Xô cũ nên tránh được vòng ảnh hưởng của Nga và các biến động
gây bất ổn trong vùng. Ngày nào Việt Nam còn nằm dưới sự cai trị của đảng CS,
ngày đó đừng hy vọng gì để trở thành một Lithuania ở Đông Nam Á.
Có
người có thể cho rằng văn hóa, dân trí của người Việt khác với văn hóa, dân trí
của người châu Âu. Văn hóa đương nhiên khác, dân trí có thể khác nhưng khát vọng
tự do dân chủ của con người, dù sinh ra và lớn lên ở đâu, cũng giống nhau. Ngày
nay, nhân loại đã bước vào kỹ nguyên dân chủ đa nguyên.Từ anh chăn cừu trên thảo
nguyên Mông Cổ cho đến người thợ mỏ Nam Phi đều đã có quyền chọn lựa người lãnh
đạo cho đất nước mình, và điều đó cho thấy dân chủ là một tiến trình chứ không
phải là một thành phẩm.
Chiến
thắng của các nước vùng Baltic là bài học vô giá cho những quốc gia nhỏ có nền
văn hóa lâu đời nhưng phải chịu đựng âm mưu đồng hóa của đế quốc cùng biên giới
và chủ nghĩa CS độc tài. Kinh nghiệm “thoát Nga” của họ cho những người Việt
yêu nước một bài học quan trọng, đó là phải vượt qua quá khứ của bản thân và đất
nước, tập trung sức mạnh dân tộc tổng hợp để tháo gỡ cơ chế chính trị, kinh tế
và văn hóa độc quyền cộng sản, nguyên nhân tạo ra tình trạng chậm tiến trong hầu
hết các lãnh vực của đất nước, và từ đó xây dựng một tương lai tự do, dân chủ
và phát triển toàn diện cho dân tộc Việt Nam phù hợp với thời đại văn minh dân
chủ.
19/11/2017
_________________________________
Tham
khảo:
-
The End Of The Soviet Union: Stanislau Shushkevich’s. Eyewitness Account For
The First Time In English, This Issue Of Demokratizatsiya Publishes. The George
Washington University Archives.
-
On Moscow’s Streets, Worry And Regret, By James F. Clarity, The New York Times,
Published December 26, 1991.
-
From Soviet Federalism To The Creation Of The Commonwealth Of Independent
States (CIS). CVCE.eu 2016
-
The International Politics Of Eurasia: V. 1: The Influence Of History By S.
Frederick Starr, Karen Dawisha.
-
Lithuania, The Move Toward Independence, 1987-91.The Baltic States In U.S. —
Soviet Relations, 1939 – 1942. Lithuanian Quarterly Journal Of Arts And
Sciences. Volume 12, No.1 – Spring 1966.
-
The Baltic States In U.S.-Soviet Relations, The Years Of Doubt, 1943-1946.
Lithuanian Quarterly Journal Of Arts And Sciences. Volume 12, No.4 – Winter
1966. Editor Of This Issue: Thomas Remeikis.
-
The Baltic States In U.S.—Soviet Relations From Truman To Johnson, Richard A.
Schnorf, Cmdr, Us Navy, Lithuanian Quarterly Journal Of Arts And Sciences.
Volume 14, No.3 – Fall 1968.
-
Identifies and Solidarity In Forein Policy: East Central Europe and the Eastern
Neighbourhood, Edited by Elsa Tumets, Published by Institute of International
Relatiosn, Prague 2012 PP 94-112.
-
Why, How, Who, and When: A Lithuanian Perspective on NATO Membership, Oskaras
Jusys and Ksadauska. Fordham International Law Journal, Volume 20, Issue 5,
-
2017 Index Economic Freedom http://www.heritage.org/index/country/lithuania
-
James S. Corum, The Security Concerns Of The Baltic States As Nato Allies,
Strategic Studies Institute And U.S. Army War College Press 2013.
-
Interview Interviews : Vytautas Landsbergis, “Breaking with Moscow”, “The
Restoration of Lithuanian Independence “, “Promoting Democracy”. The Freedoom
Collection.
-
The Polish-Lithuanian Commonwealth (1569-1795) By H. Kozlowski
-
Flag of Estonia
http://en.wikipedia.org/wiki/Flag_of_Estonia
http://en.wikipedia.org/wiki/Flag_of_Estonia
-
Flag of the Estonian Soviet Socialist Republic from 1953 to 1990
-
History of Estonia
-
Forest Brothers
-
Red Flag
-
French revolution 1848
-
Alphonse de Lamartine
-
Singing revolution
-
Movie Singing revolution
-
Estonian government-in-exile
-
Yalta Conference http://en.wikipedia.org/wiki/Yalta_Conference
-
List of countries by military expenditures. http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_military_expenditures
-
How Democracy is Latvia, Commission of Strategic Analysis. (2005) Latvijas
Universitate.
-
On the Restoration of Independence of the Republic of Latvia. http://en.wikipedia.org/wiki/On_the_Restoration_of_Independence_of_the_Republic_of_Latvia
-
Latvia 1990-2010 Twenty years of Independence.
No comments:
Post a Comment