Từ hội nghị Thành đô
đến nay thời gian đã 27 năm. Những nghi vấn
chung quanh cái gọi là “mật ước Thành đô” vẫn còn y nguyên. Nội dung của “mật
ước Thành đô”, tôi có viết hôm qua, dẫn từ một bài viết trên BBC năm 2014. Bài
báo này dẫn lại các ý kiến trên Tân Hoa xã và Hoàn cầu thời báo của TQ. Nội
dung cho rằng lãnh đạo VN có cam kết sáp nhập VN vào TQ để VN trở thành một “tỉnh
tự trị”.
Nhiều
người lên tiếng khẳng định (như đinh đóng cột) rằng không hề có cái gọi là “mật
ước Thành đô”. Cũng có người đưa nhiều lý do để khẳng định rằng mật ước này nếu
có cũng không thể có hiệu lực.
Đối
với tôi, một người “nghiên cứu nghiệp dư”, cái gì “có” tôi nói “có”, cái gì
“không có” tôi nói “không có”. Cái gọi là “mật ước Thành đô” theo tôi là một
“nghi vấn”, vì đến nay vẫn chưa đủ dữ kiện để khẳng định, hay phủ định sự hiện
hữu của nó.
Còn
về hiệu lực các kết ước, theo sự hiểu biết còn rất thô sơ của tôi, bất kỳ kết ước
nào, ký kết công khai hay ký trong vòng bí mật, giữa đại diện hợp pháp của hai
quốc gia, thì kết ước này có hiệu lực pháp lý.
Hội
nghị Thành đô, phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng. Phía
Trung quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý
Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.
Tức
là, nếu “mật ước Thành đô” có ký kết, dưới sự ký nhận của một đoàn nhân sự lãnh
đạo tối cao của hai quốc gia như vậy, mật ước này có hiệu lực ràng buộc.
Dữ
kiện tôi cho là “nặng ký” là sự vắng mặt của cố Bộ trưởng bộ ngoại giao Nguyễn
Cơ Thạch trong các cuộc hội đàm. Mà lý ra, thẩm quyền đàm phán trên những vấn đề
đối ngoại là thuộc về ông Nguyễn Cơ Thạch.
Ý
kiến của ông Nguyễn Cơ Thạch về các kết ước thực hiện trong hội nghị Thành đô
là "Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự."
Thật
là tiếc, ông Nguyễn Cơ Thạch đã không viết hồi ký cho hậu thế để đám sinh sau
biết “bề trái” của hội nghị Thành đô đó ra sao.
Nhưng
không thể phản bác, đến hôm nay, lời của ông Nguyễn Cơ Thạch đã ứng nghiệm: “VN
đã lệ thuộc vào TQ”.
Nhân
dân VN như những con ếch trong nồi nước đặt trên lò lửa. Nước trong nồi đã nóng
lắm rồi nhưng không có con ếch nào “cảm nhận” được cả. Điều này cũng nên đặt vấn
đề với giới “học giả”, sử gia, trí thức VN…
Hiện
nay, về chính trị, hai đảng CS VN và TQ là hai “đảng anh em”, có chung lý tưởng.
Về kinh tế, có còn chỗ nào ở VN mà không bị tài phiệt TQ chi phối ? Thử nhìn tổng
quát trong một gia đình tiêu biểu ở VN. Có món đồ nào trong nhà, từ thức ăn cho
tới máy móc, mà không xuất phát từ TQ ? Về văn hóa, giáo dục… phim ảnh của TQ
chiếu thường trực trên các đài truyền hình từ nam ra bắc. Dân VN thuộc sử Tàu
hơn lịch sử VN. Báo chí lâu lâu lại đưa đăng tải những chuyện “ngớ ngẩn” trong
dân chúng, như chuyện “Hai Bà Trưng đánh giặc nào”. Các sư thầy trong chùa thì
tin tưởng rằng Lý Thường Kiệt là “hỗn” khi đánh Tàu… Bây giờ lại có màn bắt buộc
học sinh học tiếng TQ. Chương trình giáo dục của TQ cũng được áp dụng ở các trường
VN. Cán bộ lãnh đạo VN cũng được TQ đào tạo.
Như
vậy không phải là “bắc thuộc” hay sao ?
Không
phải lời của cố bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã ứng nghiệm hay sao ?
VN
đã từ lâu vào vòng bắc thuộc.
Dầu
vậy, đến nay ta vẫn không thể kết luận là “có” cái gọi là “mật ước Thành đô”.
Nhưng,
nếu xét nội dung tuyên bố VN-TQ 2017 ký kết giữa Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận
Bình, “VN và TQ có tiền đồ tương quan, có vận mệnh chung”; đồng thời những gì
thể đã hiện trên thực tế, ta “cảm nhận” rằng “mật ước” này hiện hữu.
Ông
Trọng đã công khai biểu lộ, đất nước VN, dân tộc VN là một “bộ phận” của TQ. Nếu
“mật ước Thành đô” có thật, tội của ông Trọng không lớn lao. Vì ông này chỉ
“thi hành” những gì các lãnh đạo tiền nhiệm đã ký kết.
Có
người biện hộ rằng trong đảng cũng có nhiều người sáng suốt lắm. Không ai để
ông Trọng “lộng hành” đâu.
Ta
thấy mới đây một bản “nội qui” của đảng CSVN được ban hành. Theo đó đảng viên
phải “phục tùng tuyệt đối” đường lối của đảng.
Hèn
chi, ta không thấy đảng viên nào lên tiếng về tuyên bố 2017 hết cả. Và để ý,
cũng không còn ai, từ học giả cho tới nhà nghiên cứu, không ai lên tiếng về vấn
đề chủ quyền lãnh thổ và biển đảo nữa. Khi tôi im tiếng thì họ cũng im theo. Bởi
vì “sứ mạng” của họ, những “nhà nghiên cứu”, là “nghiên cứu, phản biện để bảo vệ
đảng”.
---------------------------------------
XEM THÊM
13/12/2017
Hội
nghị Thành Đô là một chủ đề gây rất nhiều tranh cãi ở Việt Nam cũng như trong
các cộng đồng người Việt hải ngoại suốt nhiều năm qua.
Hội nghị Thành Đô đã
diễn ra trong bí mật.
Chỉ
4 ngày sau khi được Đại sứ Trung Quốc thông báo, ba nhà lãnh đạo Việt Nam là
TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng đã có mặt tại
Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) vào đúng ngày Quốc khánh lần thứ
45, trong khi Đặng Tiểu Bình thậm chí không thèm xuất hiện như lời hứa hẹn lấp
lửng ban đầu.
Bối
cảnh
Cuối
thập niên 1980, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bắt đầu chao đảo trước khi
sụp đổ hàng loạt.
Về
phần mình, mặc dù đã thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại hội VI nhưng Việt
Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị - kinh tế -
xã hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975.
Lo
sợ cho số phận của mình và tự huyễn hoặc “dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc
vẫn là một nước XHCN”, một số nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo CSVN, đứng đầu
là TBT Nguyễn Văn Linh, đã quay sang ôm chân các ông chủ Trung Nam Hải, bất chấp
thực tế là trước đó Bắc Kinh đã đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974, phát động
cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 - 1989, thảm sát 64 quân nhân Việt Nam rồi
chiếm đảo Gạc Ma năm 1988.
Mật
ước Thành Đô?
Từ
nhiều năm trước, trong dư luận đã lan truyền thông tin rằng kết quả Hội nghị
Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lãnh đạo CSVN đề nghị và lãnh đạo Trung Quốc
đồng ý để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của Trung Quốc.
Đến
tháng 5/2014, một số trang mạng thậm chí còn đăng
tải nội dung của bản “mật ước” (được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và
Tân Hoa Xã công bố): “…Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một
khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã
dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
Phía
Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời
gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành
cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.…”
Đâu
là sự thật?
Trong
cuốn hồi ký “Hồi ức
và Suy nghĩ” của mình, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã tiết lộ:
“Sau 2 ngày nói chuyện (3 - 4/9/1990), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi
là ‘Biên bản tóm tắt’ gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi
nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện
quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc
gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam
và Trung Quốc.”
Nghĩa
là, Hội nghị Thành Đô kết thúc song việc bình thường hoá quan hệ hai nước, điều
mà ban lãnh đạo Việt Nam nóng lòng mong đợi, vẫn chưa chốt lại được. Vì thế, giả
thuyết về bản “mật ước” kia rõ ràng là thiếu cơ sở.
Thậm
chí ngay cả “Biên bản tóm tắt” 8 điểm nói trên cũng không được phía Việt Nam thực
hiện đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phản đối của Bộ Ngoại giao dưới quyền
Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, với sự đồng tình của một vài uỷ viên Bộ Chính trị
khác, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ đã thuật lại trong hồi ký. (Trong cuộc họp
kiểm điểm về Hội nghị Thành Đô, Phó Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “…Mình bị nó
lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”)
Thiếu
tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974-1987) cho
biết là mặc dù cùng 19 cựu sỹ quan cao cấp khác ký tên vào bản kiến
nghị yêu cầu minh bạch hóa Hội nghị Thành Đô song ông cũng không tin vào thông
tin phía Trung Quốc đưa ra.
Đại
tá Nguyễn Văn Tuyến (cán bộ tiền khởi nghĩa và là thành viên sáng lập CLB chống
tham nhũng, tiêu cực của các vị lão thành cách mạng ở Hà Nội) cho chúng tôi biết
là trong một cuộc gặp với Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh, khi ông đề cập
đến “Mật ước Thành Đô”, ông Huynh khẳng định đích thân ông ta đã vào kho lưu trữ
của đảng để tìm nhưng không hề thấy bản “mật ước” đó. (Lãnh đạo cộng sản nói
thì không hẳn là đáng tin, song điều đó không có nghĩa là họ chưa bao giờ nói
thật. Và sự khẳng định của nhân vật số 5 trong ban lãnh đạo Việt Nam phù hợp với
logic ở trên, cũng như với một tài liệu được cho là của Ban Tuyên giáo Trung
ương năm 2014 nhằm
giải thích về Hội nghị Thành Đô.)
Toan
tính gì?
“Người
Trung Quốc làm gì cũng có tính toán.” Thông tin về “Mật ước Thành Đô” được Bắc
Kinh tung ra ngay giữa lúc họ đưa giàn khoan HD981 vào sâu trong thềm lục địa
và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 đến 15/7/2014. Rõ ràng, họ
muốn qua đó để biện hộ cho hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam, gây chia rẽ
trong ban lãnh đạo CSVN, khiến người Việt trong và ngoài nước bị phân hoá, và
cuối cùng là làm suy yếu nỗ lực của Hà Nội trong việc chống lại hành vi ngang ngược
đó.
Mặc
dù nội dung cụ thể của “Mật ước Thành Đô” được Bắc Kinh “tiết lộ” vào thời điểm
họ đưa giàn khoan HD981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhằm mục
đích như chúng tôi đã đã chỉ ra, song thông tin về sự tồn tại của nó thì đã xuất
hiện từ lâu. Vậy động cơ của họ là gì?
Quả
thực, không khó để nhận ra toan tính của Bắc Kinh khi cho lan truyền thông tin
về “Mật ước Thành Đô”. Đây thực sự là một mũi tên trúng nhiều đích theo đúng bản
chất “thâm như Tàu” của họ: (i) khiến những người Việt tâm huyết với công cuộc
chống bành trướng Trung Quốc nản lòng (do nghĩ rằng mọi nỗ lực đều vô ích bởi
cái văn kiện bán nước kia); (ii) làm phân tâm những người chống hiểm hoạ Trung
Quốc tại Việt Nam (thay vì lẽ ra cần tập trung vào việc vạch trần và ngăn chặn bàn
tay tội ác của “nhóm lợi ích Tàu” trong bộ máy hiện hành thì họ lại
phung phí thời gian và công sức vào việc tranh cãi hoặc lên án và đòi bạch hoá
một chuyện không có thật trong quá khứ); và (iii) khiến cho người dân bình thường
không tin tưởng vào truyền thông phi chính thống (khi thấy trên mạng toàn loan
truyền những thông tin nhảm nhí).
Không
chỉ nặn ra cái gọi là “Mật ước Thành Đô”, Bắc Kinh thậm chí còn dựng
lên cả một câu chuyện kỳ bí qua tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh bình khảo”
của Hồ Tuấn Hùng. Theo đó, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Sinh Cung (nguyên quán Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An), mà là Hồ Tập
Chương, người Đài Loan. (Ngoài những mục đích nêu trên, điều này còn giúp dọn
đường dư luận để “con
ngựa thành Troy” Hoàng Trung Hải ngày càng “chui sâu, leo cao” và cuối
cùng là thâu tóm chiếc ghế Tổng Bí thư.)
Không
còn nghi ngờ gì, “Mật ước Thành Đô” là một câu chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu
đồ đen tối của Trung Nam Hải. Việc nhà cầm quyền CSVN không công khai Thoả thuận
Thành Đô là vì đó không chỉ là một thất bại nhục nhã trong lịch sử ngoại giao
Việt Nam, mà còn là bằng chứng không thể chối cãi về hành vi “cõng rắn cắn gà
nhà”, “rước voi về dày mả tổ” của họ. Chỉ chừng ấy thôi họ đã bị lịch sử và
nhân dân đời đời lên án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt Nam thành một
bộ phận của “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Ngoài
ra, ngay cả khi “Mật ước Thành Đô” là sự thật đi nữa thì nó cũng không có giá
trị pháp lý, bởi nó không tuân theo những trình tự pháp lý thông thường của một
hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hoàn toàn không đủ chính
danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ trọng như thế. Trong khi
đó, những người ký kết “mật ước” đó hoặc đã chết, hoặc gần như không còn ảnh hưởng
trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị.
Trong
một bài viết trước đây, chúng
tôi đã chỉ ra rằng, nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được
Hà Nội thực hiện đúng thì Việt Nam đã trở thành “một bộ phận không thể tranh
cãi của Trung Quốc” từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi “Mật ước Thành Đô”
được thi hành. Điều này không xẩy ra bởi thực tế là trong ban lãnh đạo Việt Nam
luôn tồn tại những thành phần ý thức được hiểm hoạ phương bắc mà Bắc Kinh chưa
thao túng được (chẳng hạn như Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt trong “Hồi ức và
Suy nghĩ”), bên cạnh áp lực từ một công chúng vốn ngày càng bộc trực và “dị ứng”
với những gì liên quan đến Trung Quốc.
Bất
luận thế nào, việc đất nước chúng ta ngày càng bị các gọng kìm của Đại Hán siết
chặt như hiện nay không phải là vì “Mật ước Thành Đô” kia, mà chính là vì 90
triệu người Việt, đặc biệt là những tinh hoa của giống nòi, đã làm chưa đủ để bảo
vệ giang sơn gấm vóc mà tổ tông đã đổ bao máu xương để dựng xây, gìn giữ.
No comments:
Post a Comment