Tuesday, October 17, 2017

VIẾT VỀ PHIM THE VIETNAM WAR - bài 1 và bài 2 (Nguyễn Tiến Hưng)




Nguyễn Tiến Hưng
Monday, 09/10/2017

Giai đoạn Khi Đồng Minh Nhảy Vào

Năm 1958, từ Đại Học Virginia (UVA ở Charlottesville) chúng tôi đã theo dõi cuộc chiến Việt Nam từ lúc khởi sự (thời TT Eisenhower) tới lúc Mỹ đưa quân vào (thời Kennedy) rồi leo thang thật nhanh (thời TT Johnson). Chúng tôi cũng đã xem (và tham gia) cuốn phim Cuộc Chiến Mười Ngàn Ngày (The Ten Thousand Day War) của Maclear được chiếu năm 1980. Bộ phim 26 giờ còn dài hơn phim 18 giờ của Ken Burns và Lynn Novick (B & N).

Hình AP chụp ngày 28 tháng Tư, 1965 cho thấy một đội Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang tiến vào một ổ du kích Việt Cộng gần Đà Nẵng. Phần đầu của 10 kỳ trong loạt phim tài liệu The Vietnam War đã bị xem là thiếu sót rất nhiều và thiếu trung thực, vì không đề cập đến trách nhiệm của Hoa Kỳ trong âm mưu lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và thiếu quan điểm từ phía miền Nam về cuộc chiến. (Eddie Adams/ AP)

Với những kinh nghiệm cá nhân và sưu tầm nhiều năm, nhất là từ tài liệu The Pentagon Papers dài 7,000 trang, được giải mật ngày 13/6/2011, chúng tôi đã viết về giai đoạn Mỹ mang quân vào Việt Nam trong cuốn sách Khi Đồng Minh Nhảy Vào (KĐMNV) với gần 900 trang gồm nhiều tài liệu gốc, xuất bản năm 2016.

Năm phần đầu bộ phim của Ken Burns và Lynn Novick (B & N) nói về cùng một thời điểm như cuốn KĐMNV (từ thập niên 40 tới cuối 1967). Cách bố cục cũng giống, nhưng với những tựa đề có kịch tính. Thí dự như tựa đề cho Tập 2: Dòng Sông Styx (The River Styx) rất hấp dẫn vì Styx là một dòng sông trong thần thoại Hy Lạp nói đến ranh giới giữa trái đất này và thế giới bên kia hay cõi chết. Nó cũng còn có ý nghĩa tương đương với địa ngục. Từ Tập 3 tới Tập 5 hầu hết chỉ chiếu lại những trận chiến lớn: An Khê, (trận đầu tiên), Plei Me, Ia Drang, Pleiku, Bình Giã, Đồi 1338, Đồi 875. Đây là những trận đã được chiếu nhiều lần trong các phim Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Cái mới là có những câu chuyện thương tâm hơn, đau đớn hơn, căn bản là của những người quân nhân Mỹ và gia đình của họ.

So với phim của Maclear, những hình ảnh trong phim này cũng không có gì mới lạ Tuy nhiên nó được làm sống động hơn, rất ấn tượng nhờ áp dụng kỹ thuật mầu sắc, ca nhạc, âm thanh tân tiến cùng với nhiều cuộc phỏng vấn những người tham chiến và cách dẫn giải của các bình luận gia.

Trong khuôn khổ giới hạn của bài này, chúng tôi tập trung nhiều hơn vào hai phần đầu vì ba phần sau hầu hết là chiếu lại những trận chiến lớn như đã đề cập.

Trên mạng BBC có bài tường thuật về buổi giới thiệu cuốn phim ở Sàigòn. Cuối phần trả lời các câu hỏi, đạo diễn Lynn Novick tóm tắt về bộ phim: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở nơi đây … mô tả thực tại, chiến tranh, chiến trường, sự chết chóc, sự hy sinh… Chúng tôi cố gắng không phán xét. Chúng tôi nói về những trải nghiệm tối tăm nhất trong cuộc đời nhân vật. Chúng tôi cố gắng trung thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến.”

Hai nhà làm phim B & N cho rằng: khác với vô số tài liệu và phim ảnh về cuộc chiến đã có trước đây chỉ trình bày những gì người Mỹ làm, hay những chiến trận hay đau khổ của người Mỹ (như phim Apocalypse Now hay Platoon), phim The Vietnam War sẽ cho cử tọa biết thêm nhiều về những biến cố, những câu chuyện về thân phận cá nhân xảy ra cho người Việt Nam, được kể lại trong các cuộc phỏng vấn từ mọi phía, với các tham dự viên người Việt ở cả hai phía Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam.

Dù đã có một chiến lược tiếp cận rất hay và đầy tính cách con người, bộ phim có nhiều sai lầm và thiếu sót. Sau đây là những thí dụ:

- Hai nhà đạo diễn B & N nói là “không phán xét” nhưng thực ra là có phán xét một cách thầm kín. Thí dụ như đoạn phim Mỹ chiến đấu trong những năm 1966-1967 được lồng vào đoạn phim hình ảnh trong cuộc chiến khốc liệt của Pháp trong thập niên 40-50. Như vậy là coi người lính Mỹ cũng giống như người lính Pháp: áp bức, tàn bạo? Và rồi Mỹ cũng sẽ lặp lại những sai lầm của thực dân Pháp?

Phim phán xét về TT Ngô Đình Diệm: “Ông là con người tàn nhẫn, không tin ai ngoài gia đình, lanh lợi, tháo vát, biết khai thác những yếu điểm của đối phương.” Rồi gán cho ông một biệt hiệu: “Đấng cứu thế không có thông điệp.”

Phán xét sai lầm này ngược hẳn với đánh giá của tờ New York Times năm 1957, gọi ông Diệm là “một người giải phóng Á Châu,” hay tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam,” hay Nghị Sĩ Jacob Javits (tiểu bang New York): “Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do,” hay Nghị Sĩ Mike Mansfield (Montana): “Công trạng ngăn chận được xâm lăng của Cộng sản ở Việt Nam, và vì vậy ở cả Đông Nam Á, là do sự quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực của Tổng Thống Diệm, một người đã chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn.” Năm 1961, Phó Tổng Thống Johnson đi xa hơn, gọi ông Diệm là “Winston Churchchil của Đông Nam Á.”

- Phim muốn kể câu chuyện từ nhiều phía… rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến” nhưng đã phỏng vấn rất ít người từ phía Miền Nam, mà cuộc chiến xảy ra căn bản là ở Miền Nam Việt Nam. Thời giờ dành cho những người này cũng rất vắn vỏi (một vài phút) qua loa để gọi là cho có phỏng vấn. Đâu là những hình ảnh và câu chuyện thương tâm, đau đớn của những người quân nhân anh dũng VNCH? Đâu là những hình ảnh vợ con của họ sống trong cảnh khó khăn, cô đơn ở thôn quê, chờ mãi không thấy chồng, bố về?

- Về phía các bình luận gia thì Neil Sheehan (ký giả thiên tả, cực lực chống đối chính phủ VNCH) là một trong những diễn giả chính của phim. Không thấy có phỏng vấn những tác giả thuộc thành phần xét lại như Mark Moyar, Lewis Sorley.

- Một sai sót lớn: phim đã khai thác khá dài về Trận Ấp Bắc (1/1963) dựa trên cuốn A Bright Shining Lie (Lời Nói Dối Sáng Ngời) của Neil Sheehan, đổ lỗi cho người chỉ huy quân đội VNCH và ca tụng ông Paul Vann hết lời. Tác giả Moyar đã thuật lại chi tiết trận đánh, địa hình địa vật, và quân số hai bên, cũng như diễn tiến trận đánh, để đi đến nhận xét rất rõ ràng về những dối trá của Paul Vann khi ông cung cấp thông tin về trận này cho Sheehan. Lúc ấy Paul Van đang bị điều tra về tội hiếp dâm nên cố gắng lấy lòng các nhà báo Mỹ (KĐMNV, trang 470-472).

- Phim không đề cập tới một thực tại quan trọng ở Việt Nam trong thập niên 40, đó là sự hình thành của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN).

Đâu là câu chuyện Đại Sứ Nhật Yokohama đến gặp Hoàng đế Bảo Đại để chuyển giao nền độc lập sau khi lật đổ Pháp (11/3/1945): “Tâu Hoàng Thượng, đêm hôm qua chúng tôi đã chấm dứt chủ quyền của Pháp quốc trên đất nước này. Tôi được trao nhiệm vụ dâng nền độc lập của Việt Nam cho Hoàng Thượng.” Có nghĩa là trao độc lập của toàn thể lãnh thổ gồm cả các hải đảo mà Nhật đã chiếm như Hoàng Sa, Trường Sa. Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ Trần trọng Kim. Tới lúc ký Hiệp Định Geneva chia đôi lãnh thổ thì chính phủ QGVN đã được 35 quốc gia công nhận. Sau Geneva, chính phủ VNCH tiếp nối QGVN. Hiệp định Geneva có Trung Quốc ký vào, như vậy là TQ đã công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng giúp cho Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp hiện nay ở Biển Đông.

- Phim cũng không nói đến bức thư đầu tiên của lãnh đạo Việt Nam, Hoàng Đế Bảo Đại gửi Tổng Thống Truman ngày 18/8/1945? Nhật vừa trả độc lập, HĐ Bảo Đại đã viết ngay cho TT Truman yêu cầu Pháp phải tôn trọng nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và trả lại độc lập cho Việt Nam: “Thưa Tổng thống, chế độ thuộc địa không còn thích hợp với chiều hướng lịch sử hiện tại… Nước Pháp phải vui lòng nhìn nhận điều đó để tránh khỏi thảm họa chiến tranh trên đất nước chúng tôi.”(KĐMNV, trang 35). Cùng ngày, ông gửi một tâm thư cho Tướng de Gaulle: “Nếu các ngài trở lại… mỗi làng xóm sẽ trở nên một tổ kháng chiến, mỗi người bạn sẽ trở nên một kẻ thù.”

- Về phía Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, phim có nói tới một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh (với chữ ký của ông) gửi TT Truman yêu cầu Mỹ ngăn chận Pháp trở lại và ủng hộ nền độc lập Việt Nam (bản chụp bức thư: xem KĐMNV, trang 709-710). Thực ra là có tất cả tới 14 văn thư và công hàm của ông Hồ gửi Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao Mỹ, yêu cầu ủng hộ nền độc lập và cứu trợ nạn đói đang hoành hành khắp mền Bắc. Về bức thư được trích dẫn, người bình luận trong phim (Leslie Gelb) nói rằng thư này không tới tay tổng thống Truman (có thể với hàm ý là vì vậy cho nên ông Truman không trả lời). Điều này là không đúng, vì trong 14 văn thư và công hàm được tóm tắt trong Phụ Lục cuốn KĐMNV (trang 704-721) có một văn kiện (ngày 17/10/1945) do chính telex của Tòa Bạch Ốc in lại.

Trong cuốn KĐMNV, chúng tôi có viết: “Như vậy là cả hai phía Việt Minh và Quốc Gia đều cầu cứu Mỹ ngăn chận Pháp trở lại Việt Nam. Thời gian đó, nạn đói lại đang hoành hành ở miền Trung và miền Bắc, chết từ 1.5 tới 2 triệu người. Xem như vậy, ta có thể đặt ra một câu hỏi: nếu như lúc ấy Mỹ đáp ứng yêu cầu của cả hai phe phái Việt Nam để ngăn chận Pháp và đặc biệt là cứu trợ nạn đói 1945 thì lịch sử đã ra như thế nào? Liệu có Vietnam War hay không? Mỹ có thể dễ dàng mở một Tòa Lãnh Sự ở Việt Nam để sử dụng số gạo thặng dư quá nhiều của mình để cứu vớt gần 17% dân số Việt nam trong cảnh đói rét. Trong trường hợp ấy toàn dân Việt Nam sẽ hoan hô Mỹ, và Pháp đã không thể trở lại.

- Đến thời chính phủ VNCH, cuốn phim nhận định sai lầm về việc Mỹ ủng hộ ông Diệm từ ban đầu. Một bình luận gia nói (hình như Leslie Gelb): “Chúng tôi muốn giúp xây dựng một chính phủ hợp pháp. Chúng tôi tin vào ông Diệm – hay cũng là nạn nhân của ông ta.” Đây là nhắc lại bình luận của giới truyền thông thiên tả mà chúng tôi đã thường nghe/xem trong những năm 1958-1963. Bây giờ, sau trên nửa thế kỷ, với bao nhiêu nghiên cứu mới, giải mật, thông tin mới mà phim vẫn còn “kể lại cho trung thực” kiểu này thì làm sao ta hiểu nổi? Sự thật là ngay từ ban đầu Mỹ đã không tin vào ông Diệm (xem KĐMNV, Chương 10-11). Sau đây là những gì đã xảy ra:

- Tháng 7, 1954 ông Diệm chấp chính, thành lập chính phủ; ngay tháng sau:
- Tháng 8, 1954 Đại sứ Mỹ Donald Heath đề nghị về Washington: “Ta phải để ý theo dõi tìm một lãnh đạo khác;”

- Tháng 12, 1954: Tướng Collins, Đặc ủy của TT Eisenhower đề nghị “Mỹ chỉ nên ủng hộ ông Diệm thêm vài ba tuần nữa thôi.”

- Đầu tháng 4, 1955 Tướng Collins đề nghị rõ ràng về 5 bước để loại bỏ ông Diệm.
- Cuối tháng 4, 1955 Washington gửi chỉ thị tối mật: thay thế thủ tướng Diệm.
Như vậy là chỉ nội trong 10 tháng chấp chính, Mỹ đã muốn lật đổ Thủ tướng Diệm.
- Phim cũng không nói gì đến các thành quả kinh tế, xã hội mà phía VNCH đã gặt hái thời Đệ Nhất Cộng Hòa như “5-Năm Vàng Son 1955-1960” (KĐMNV, Chương 13). Về hành chánh đã có các cán bộ được huấn luyện chu đáo trong hai thập kỷ bởi Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, chẳng thua gì Ecole Nationale DAdministration của Pháp (nơi xản xuất các lãnh đạo Pháp), các đại học Luật Khoa, Y Khoa, nơi sản xuất ra các luật sư, thẩm phán biết đẩy mạnh truyền thống pháp trị /rule of law và các bác sĩ làm việc trong các bệnh viện thay thế bác sĩ Pháp. Miền Nam Việt Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của chính Nam Hàn dưới thời TT Phác Chính Hy, dẫn đến sự thành công lớn lao ngày nay của nước này.

Tại sao có chiến tranh Việt Nam – Why Vietnam War?

- Phim lấy tên là Vietnam War mà lại không chiếu hình ảnh và phỏng vấn về “Tại sao có chiến tranh Việt Nam – Why Vietnam War?” Đây là thiếu sót rất quan trọng. Thí dụ như TV không thể chỉ chiếu và dẫn giải về cảnh tàn phá, hoang tàn ở Houston và Florida mới đây mà không chiếu và dẫn giải về lộ trình và tốc độ của con mắt đỏ Harvey và Irma, lồng lộn xoáy vào từ ngoài đại dương.

- Phim nói mập mờ cho rằng chiến tranh Việt Nam đã leo thang từng bước vì những tính toán sai lầm của các lãnh đạo kế tiếp nhau ở Washington. Sự thực là ngược lại, năm tổng thống Mỹ (Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon) đã tính toán rất kỹ về quyền lợi của Mỹ như đã được chứng minh rõ ràng trong cuốn KĐMNV. Tất cả có tới bảy quyền lợi mà Mỹ muốn bảo vệ ở Biển Đông, mà Việt Nam là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như Tổng Tham Mưu Mỹ đã xác định (KĐMNV, Chương 3).

- Vietnam War thực sự bắt đầu khi TT Kennedy mang quân chiến đấu vào Việt Nam. Phim không nói sự thực về động cơ nào đã đưa ông Kennedy tới quyết định ấy. Lý do đưa quân tác chiến vào không phải là để “bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam” mà là vì hai cú sốc. Thứ nhất, ngày đăng quang, ông tuyên bố “Chúng tôi sẽ trả bất cứ giá nào, xốc vác bất cứ gáng nặng nào… để bảo đảm sự sống còn và sự thành công của tự do.” Nhưng vừa tuyên bố như vậy thì phải chịu hai cái thất bại liên tục, một ở Lào và một ở Cuba. Ông tâm sự: “Tôi không thể chấp nhận cái thất bại thứ ba,” cho nên ông tập trung vào Việt Nam. Thứ hai, mùa hè 1961 ông bị một cú sốc mạnh khi lãnh đạo Liên Xô Nilkita Khrushchev thách thức ông tại cuộc họp thượng đỉnh Vienna: “Tôi muốn hòa bình, nhưng nếu ông muốn chiến tranh thì đó là vấn đề của ông.”

Trở về Washington, TT Kennedy tâm sự với James Reston, trạm trưởng của tờ New York Times tại Washington và là bạn ông Kennedy: “Ông ta đối xử với tôi như một cậu bé con… Ông ta nghĩ rằng vụ Vịnh Con Heo chứng tỏ là tôi thiếu kinh nghiệm. Có thể ông ta còn nghĩ là tôi ngu nữa. Và có thể quan trọng nhất, ông ta nghĩ tôi không có gan.”

Cho nên Kennedy đã quyết định phản ứng, chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên Xô. Lúc ấy Khrushchev đang thay đổi chiến lược: chuyển từ trực tiếp đối mặt với Mỹ sang gián tiếp, từ chiến tranh quy ước tới chiến tranh du kích. Kennedy quyết định: “Việt Nam là đúng chỗ rồi.” Ông đôn quân vào Miền Nam.

TT Diệm không đồng ý cho Mỹ mang quân vào

- Sau quyết định ấy, cái gì đã xảy ra tại Sàigòn thì phim Vietnam War đã bỏ qua hoàn toàn. Đây là điểm lịch sử cần phải được làm sáng tỏ: Mỹ mang quân vào trái với ý muốn của TT Diệm. Muốn trung thực thì bắt buộc phải chiếu hình ảnh và phỏng vấn về điểm này. TT Diệm chỉ yêu cầu – vì chống cộng là quyền lợi hỗ tương của cả hai nước - Hoa Kỳ yểm trợ phương tiện vật chất, hoặc là hai bên đi tới một hiệp ước quốc phòng song phương thay vì mang quân đội Mỹ vào.

Sau cùng Mỹ phải tìm hai cớ để đôn quân vào. Chúng tôi đã nghiên cứu thật kỹ và viết lại cho rõ ràng trong cuốn KĐMNV (Chương 15-16):

- Lấy cớ huấn luyện quân đội Miền Nam: Tổng Tham Mưu Mỹ đề nghị “Để thuyết phục ông Diệm thì hay nhất là lấy cớ đem quân vào để huấn luyện, rồi đem một đơn vị chiến đấu quân vào đóng ở Việt Nam với công tác là giúp thiết lập hai doanh trại huấn luyện.”

- Lấy cớ “cứu trợ lũ lụt”: Tướng McGarr, Chỉ huy trưởng cơ quan viện trở quân sự MAAG gửi một công điện về Ngũ Giác Đài: “Trận lụt rất nặng ở Đồng Bằng Cửu Long…nặng nhất kể từ 1937 cho thấy ta có thể dùng việc cứu trợ lũ lụt để biện hộ cho việc mang quân vào làm công việc nhân đạo, để rồi có thể giữ quân đội này lại nếu muốn.”

Chẳng bao lâu, cố vấn, quân nhân, CIA, ký giả thiên tả Mỹ tràn lan khắp nơi. Trong cuốn sách A Death in November, tác giả Ellen Hammer kể lại: có lần TT Diệm phàn nàn với Đại sứ Pháp Lalouette: “Tôi không bao giờ yêu cầu những người quân nhân này tới đây. Họ cũng chẳng có cả hộ chiếu nữa.”
- Phim không nói tới sự kiện là trước bối cảnh đó, TT Diệm ngỏ ý muốn Mỹ rút bớt cố vấn đi. Đại sứ Pháp Lalouette cho rằng “lý do chính đưa tới quyết định của Mỹ loại bỏ ông Diệm là vì vào tháng Tư năm ấy (1963), ông đã toan tính yêu cầu Mỹ rút cố vấn.”

Sau khi Mỹ bỏ Lào (1962) TT Diệm nhìn thấy chân trời tím, ông biết ngay rằng trước sau thì Mỹ cũng sẽ bỏ rơi Miền Nam, cho nên ông đi tìm giải pháp hòa bình. Qua Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông đã sắp xếp để điều đình về hiệp thương với Miền Bắc, rồi từng bước tiến tới thống nhất trong hòa bình. Thời điểm ấy, Miền Bắc đang gặp khủng hoảng về lương thực trầm trọng. Theo người môi giới giữa hai bên là ông Maneli (Đại Sứ Ba Lan trong phái đoàn kiểm soát đình chiến), thì chính phủ Miền Bắc sau cả năm suy nghĩ đã đồng ý để hợp tác với TT Diệm và Mỹ để đi bước này.

Nhưng Đại Sứ Lodge, rồi Bộ trưởng McNamara và tướng Taylor báo cáo cho TT Kennedy: “Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) – cho dù là nghiêm chỉnh hay không đi nữa – cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với những mục tiêu của Hoa Kỳ.” Amen!

- Về bối cảnh đảo chính, phim chỉ chiếu cảnh Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu, thanh niên biểu tình, không nói gì về vai trò của các ký giả thiên tả (như Sheehan, Halberstam, Brown, Sully) và quan chức Mỹ (Harryman, Hillsman, Forrestal, Ball) nhất là Đại Sứ Henry Cabot Lodge (chúng tôi gọi ông này là “Đao phủ Henry I”) đã đưa tới đảo chính và sát hại TT Diệm. (Chúng tôi sẽ nói đến “Đao Phủ Henry II” - Henry Kissinger trong bài sau).

Biến cố đảo chính là điểm ngoặt, dẫn đến xáo trộn và khủng hoảng chính trị tại Miền Nam trong hai năm tiếp theo. Trước viễn tượng Miền Nam bị sụp đổ, TT Johnson mang đại quân vào để yểm trợ. Cuộc chiến leo thang rất nhanh từ đó, và thương vong, chết chóc cũng tăng lên rất nhanh từ đó.

***
Tóm lại, bộ phim có nhiều sai lầm và thiếu sót. Thiếu sót quan trọng nhất trong phần đầu là không đề cập tới trách nhiệm của người Mỹ trong cuộc đảo chính và hạ sát TT Diệm. Nếu như thay vì đảo chính, Mỹ ủng hộ sáng kiến và đồng hành với TT Diệm để tìm giải pháp hòa bình thì liệu Vietnam War có xảy ra hay không? Biểu tình nửa triệu người có xảy ra hay không?

Không đề cập tới những gì đã xảy ra tại Dinh Gia Long, những bi kịch, hậu quả của những quyết định của TT Kennedy (như đem quân vào, can thiệp thật sâu vào nội bộ Miền Nam, rồi đảo chính TT Diệm) và vai trò của giới truyền thông bóp méo sự thật trong cuộc chiến, thì làm sao đạo diễn Novick có thể nói rằng: “Chúng tôi muốn biết cái gì đã xảy ra ở nơi đây … mô tả thực tại… trung thực với những bi kịch, kể câu chuyện từ nhiều phía, và tìm cách thể hiện rất nhiều trải nghiệm của người Việt Nam trong cuộc chiến?” 

Hy vọng rằng trong Phần II gồm 5 tập còn lại cuốn phim sẽ cân đối hơn, chính xác hơn, và công bằng hơn.
Hãy trả lại cho Cezar những gì thuộc về Cezar.

*
*
Nguyễn Tiến Hưng
Wednesday, 11/10/2017

Giai đoạn khi Đồng Minh tháo chạy 

Ánh lửa từ những bó đuốc của đoàn người da trắng đi tuần hành tại Charlottesville tháng Tám vừa qua làm sáng rực bầu trời khuôn viên trường Đại Học Virginia (UVA) gợi lại cho chúng tôi bao nhiêu kỷ niệm về vấn đề da mầu trong suốt bảy năm theo học tại nơi đây (1958-1965). Xung đột sắc tộc đã dẫn tới những cuộc biểu tình tràn lan làm chia rẽ nước Mỹ trước khi quân đội Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Như vậy không phải chỉ vì cuộc chiến Việt Nam mà có phong trào biểu tình làm cho đất nước này bị xé nát.

Đại học Virginia là trường của người da trắng vì không nhận sinh viên da đen. Và sinh viên da trắng phải là phái nam. Muốn vào UVA, nữ sinh viên phải theo học ở Mary Washington College tại Fredericksburg, cách Charlottesville 66 dặm. Vừa tới thành phố này chúng tôi đã thấy phòng vệ sinh dành cho “White” và “Black.” Thoạt đầu cũng lúng túng, không biết mình nên chọn phòng nào? 

Một quân nhân VNCH đang tiến vào một trong hai ngôi làng Phanh-Ban và Phanh-My gần Đà Nẵng, trong hình do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ chụp lại. Hai làng này bị lực lượng Việt Cộng pháo kích trong suốt hai tiếng đồng hồ vào đêm 10 tháng Sáu, 1970, vì dân làng đã cương quyết đứng về phía Việt Nam Cộng Hòa, không theo Việt Cộng. Trên 150 dân làng đã bị sát hại trong trận pháo kích này. (U.S. Marine Corps Sgt. Berkowits)

Cái gì phải đến thì đã đến. Năm năm sau, ngày 10 tháng 9, 1962, một cuộc nổi loạn ở Oxford, Mississipi: hai người chết và một số bị thương, TT Kennedy phải điều động tới 16,000 vệ binh tới để dẹp loạn, bắt chấp nhận một sinh viên da đen vào học tại Đại Học Mississipi. Cả thành phố Oxford bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội. Làm sao mà ở nước Mỹ lại có thể có cái cảnh này, chúng tôi tự hỏi?

Trong tất cả các cuộc biểu tình phản chiến (kể cả biến cố vệ binh bắn vào sinh viên biểu tình tại Đại Học Kent State ngày 4 tháng 5, 1970) vừa được nhắc lại trong bộ phim The Vietnam War của Ken Burns và Lynn Novick (B và N), không bao giờ có cả một thành phố bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội như vậy.
Ngày 11 tháng 6, 1963 mọi người ngỡ ngàng khi thấy TV chiếu cảnh Thống Đốc Alabama, ông George Wallace đứng chận ngay trước cửa Đại Học Alabama (Tuscaloosa) không cho hai sinh viên da đen vào lớp học. TT John F. Kennedy lại phải đưa vệ binh tới, và cảnh sát tháp tùng hai sinh viên nhập học. Khi được bầu lên thống đốc ông Wallace đã tuyên bố: “Tách biệt bây giờ, tách biệt ngày mai, tách biệt mãi mãi” (segregation now, segregation tomorrow, segregation forever).

Tiếp theo là cuộc biểu tình vĩ đại “March on Washington” ngày 28 tháng 8, 1963 do Mục sư Luther King lãnh đạo. Thông điệp của ông về “Tôi có một giấc mơ” (I have a dream) và phản ứng của đoàn người biểu tình ước tính tới 250,000 người. Ngày hôm sau, một nhà lãnh đạo nhân quyền bị ám sát ở Jackson, Mississipi.
Những biến cố liên tục này làm cho nước Mỹ bất an, chia rẽ không kém gì những cuộc biểu tình phản chiến trong bộ phim The Vietnam War.

Năm 1963 thì Lynn mới lên một tuổi và Ken lên mười, không để ý tới biểu tình. Có thể vì vậy mà trong phim này, đã hàm ý rằng chỉ vì chiến tranh Việt Nam nên mới có biểu tình náo động và lớn lao như vậy. Phim không nói đến sự thật là vì sợ phải đi lính, một số khá đông thanh niên đi biểu tình là để chống quân dịch (the DRAFT) như chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.

Phần II của phim The Vietnam War đề cập về cùng một thời gian với cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy (KĐMTC), đó là từ Tết Mậu Thân cho tới khi Miền Nam sụp đổ. Trong cuốn sách này, chúng tôi tập trung vào việc Hoa Kỳ đã bỏ rơi Miền Nam như thế nào. Còn phim The Vietnam War, tuy có đề cập tới những sự kiện theo dòng lịch sử, nhưng tập trung vào biểu tình, thương vong, và hoàn cảnh bi đát của những người quân nhân Mỹ trên chiến trường. Họ đã không được hậu phương ủng hộ, cho nên lẫn lộn về sứ mệnh của mình: “Tôi đang chiến đấu cho cái gì đây?” (What do I fight for?).

Trong khuôn khổ giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ đề cập vắn gọn tới một số sai lầm và thiếu sót của bộ phim.
Trung thực hay thiên lệch?
Phần II của phim vẫn tiếp tục phán xét, còn nặng hơn Phần I. Phim đã lập lại những luận điệu của phe thiên tả rằng chính phủ Sàigòn tham nhũng, TT Thiệu hành động độc tài như ông vua trong một nước bé nhỏ, quân đội VNCH không hữu hiệu, nạn trốn quân dịch. Nặng nề nhất là đã một cách gián tiếp làm cho khán giả hiểu lầm rằng chính phủ Miền Nam chỉ là bù nhìn của Mỹ.

Về tham nhũng, chúng tôi miễn bình luận vì trong những năm vừa qua, độc giả đã nghe và xem quá nhiều về tham nhũng ở ngay Washington, hay thống đốc Virginia vào tù.

TT Thiệu độc tài: B và N không biết rằng Sàigòn có tới cả vài chục đảng phái, mấy chục tờ báo, luôn chỉ trích, công kích chính phủ? Rồi ca nhạc phản chiến tràn lan, sinh viên xuống đường biểu tình thoải mái.
Quân đội không hữu hiệu, trốn quân dịch? Sau trên 40 năm với bao nhiêu nghiên cứu đặt lại vấn đề hy sinh và thành công của quân đội VNCH mà B & N vẫn lập lại luận điệu xưa cũ. Trước khi phê bình như vậy, thiết tưởng B và N phải cho nghiên cứu (vì ngân sách $30 triệu rất lớn) xem có dân tộc nào trên thế giới này đã chịu chấp nhận cho gần 1/3 số thanh niên nam ở tuổi lao động (1.2 triệu trên 3.9 triệu) đi quân dịch hay không? Và những người quân nhân này đã chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào? Tiền lương thì chỉ đủ mua gạo cho gia đình. Chỉ có thế. Quả thật là đã có nạn lính ma, lính kiểng nhưng chỉ là số rất nhỏ, đại đa số đã vui lòng nhập ngũ.

“Hành động nói to hơn lời nói,” chính Đại Sứ Graham Martin là người có mặt tại Sàigòn đến giờ phút cuối cùng đã phải cải chính trước Quốc Hội rằng (sau khi Mỹ rút hết từ mùa Xuân 1973) “Miền Nam chỉ mất một tỉnh đầu tiên là Phước Long vào tháng 1, 1975 khi các ngài đã cắt hết viện trợ.” Lúc ấy quân đội chỉ còn đủ đạn dược để chiến đấu 30 - 45 ngày. Cho nên nếu ngày 30/4 không xảy ra thì muộn lắm cũng sẽ xảy ra hai tháng sau, vào ngày 30/6/1975?

Chính phủ Miền Nam là bù nhìn của Mỹ?
Cáo buộc này đã được nhiều người phản biện. Nơi đây, chúng tôi chỉ nhắc lại như thế này: tuy dù vì hoản cảnh thật nghèo sau mười năm chiến tranh của Pháp (1945-1955), VNCH đã phải lệ thuộc vào viện trợ của Mỹ nhưng không phải vì thế mà lãnh đạo của họ trở thành bù nhìn.

Như đã đề cập trong cuốn Khi Đồng Minh Nhảy Vào (KĐMNV) thời Đệ Nhất Cộng Hòa, TT Ngô Đình Diệm đã yêu cầu TT Kennedy rút cố vấn đi, và cũng không muốn cho Mỹ đưa quân đội tác chiến vào Miền Nam. Khi thấy Mỹ bỏ Lào (1962), ông nhìn thấy chân trời tím và biết rằng trước sau thì Mỹ cũng bỏ rơi Miền Nam nên muốn điều đình với Miền Bắc để tìm một giải pháp hòa bình. Ông đã chống lại Mỹ và sau cùng đã hy sinh tính mạng để giữ được chính nghĩa quốc gia.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, TT Thiệu đã nhất quyết chống lại TT Nixon, không chấp nhận bản dự thảo Hiệp Định Paris cho dù bị đe dọa sẽ có đảo chính giống như 1963, rồi TT Nixon còn tàn nhẫn đến mức nói “cắt cổ ông Thiệu nếu cần thiết.” Nhưng TT Thiệu vẫn cưỡng lại. Sau cùng TT Nixon phải bí mật cam kết để bảo đảm hòa bình và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho Miền Nam để đổi lấy sự đồng ý của TT Thiệu. Nhưng cam kết thì cũng chỉ là mánh khóe để bỏ rơi Miền Nam (xem KĐMTC).
Không giải thích cho rõ tại sao thương vong lên cao?
Tử thương lên tới 58,200 người là vì hai lý do:
Thứ nhất: Mỹ muốn trực chiến. Mặc dù cả hai tổng thống VNCH - Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu - đều đã yêu cầu là Mỹ chỉ cần yểm trợ phương tiện, vật chất và huấn luyện quân đội Miền Nam để họ tự bảo vệ, rồi chỉ yểm trợ khi nào bị tấn công, nhưng Mỹ đã không nghe, cứ mang thật nhiều quân vào rồi đưa họ ra chiến trường.

Ngay từ lúc Mỹ mới nhúng tay vào Miền Nam cũng đã có sự bất đồng ý về chiến thuật giữa cố vấn Mỹ và tuớng lãnh Miền Nam. Trong một buổi họp, viên tư lệnh Mỹ ở Miền Nam đã nói toạc ra là "ai chi tiền thì người đó chỉ huy" (who pays, commands). Rồi tới khi chiến tranh leo thang, sứ mệnh của quân đội Hoa Kỳ được xác định là chiến đấu, sứ mệnh quân đội Miền Nam là gìn giữ an ninh ở hậu phương.

Vì thế Tướng Westmoreland đã theo một chiến thuật gọi là "tìm và diệt địch" (search and destroy). Người lính Mỹ đi tìm địch phải lội vào bùn lầy, trực thăng thả họ xuống những nơi hẻo lánh, núi đồi hiểm trở. Trận Đồi 937 (còn gọi là Hamburger Hill) ở Thung lũng A Shao có tới 56 tử thương và 480 bị thương.

Vì quân đội Mỹ đã chủ động, nên quân đội Miền Nam không được huấn luyện tối đa cho tới năm 1969 khi Mỹ bắt đầu rút. Lúc ấy mới có chương trình Việt Nam Hóa, giúp tân trang và đẩy mạnh huấn luyện. Ta nên nhớ chỉ sau Tết Mậu Thân quân đội VNCH mới được trang bị súng M-16, còn trước đó chỉ là loại cổ, súng Garrant M-1 và súng Carbin từ thời đệ nhị thế chiến (KĐMTC).

Thứ hai, Mỹ áp dụng mô hình chiến tranh quy ước (conventional warfare) để đánh chiến tranh du kích. Mô hình này dựa vào hai yếu tố chính yếu, đó là “di động tính và hỏa lực” (mobility and fire power). Di động tính là dùng nhiều trực thăng để chuyển quân, nhưng trực thăng bay thấp, dễ bị bắn trúng. Hỏa lực: máy bay thả nhiều bom đạn và đại pháo gây nhiều thương vong cho người dân Việt và có khi còn cho cả người lính Mỹ.
Không nói hết sự thực về lý do biểu tình phản chiến
Trong suốt thập niên 1960, chúng tôi - trước là sinh viên, sau là giáo sư - đã sinh hoạt gần gũi với các sinh viên: phản chiến có, ủng hộ có. Đôi khi còn đi lẩn vào đám đông để quan sát, nghe ngóng. Cho nên đã thấy ngay sự thiếu sót của bộ phim về “biểu tình phản chiến.” Phim lại dành nhiều thời giờ cho phong trào này.
Như đã đề cập trên đây, những cuộc nổi loạn, xung khắc về da mầu đã châm ngòi phong trào biều tình ngay từ năm 1962, ba năm trước khi quân đội Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng (3/1965). Khi cuộc chiến bùng nổ, phong trào phản chiến nhập luôn với phong trào nhân quyền, làm cho những cuộc biểu tình trở nên náo động và xáo trộn hơn, như :

- Biểu tình tại Washington ngày 21/10/1967 (100,000 người);
- Xáo trộn tại đại hội Đảng Dân Chủ vào mùa hè 1968;
- Biểu tình (lớn nhất) tại Washington ngày 15/11/1969, với khẩu hiệu “Moratorium March”, ước tính giữa 250,000 – 500,000 người (phim dùng con số 500,000 người).

Độc giả lưu ý là vào ngày 4 tháng 4, 1970 cũng có cuộc biểu tình lớn nữa, nhưng với khẩu hiệu là “Tuần hành cho chiến thắng” (March for Victory): có tới 50,000 người tham dự.

Qua hình ảnh và dẫn giải, phim cho khán giả cái ý niệm là lý do biểu tình chỉ là chống chiến tranh. Thực ra thì có nhiều lý do của nhiều phong trào xen kẽ với nhau. Nhiều khi những người đi biểu tình còn mang cả biểu ngữ khác nhau:

Ngoài nhân quyền của Mục sư Luther King, còn có nhiều mục tiêu khác, thí dụ như:
- Tranh đấu tăng công ăn, việc làm (kết quả là chương trình Equal Opportunity Employment);
- Yêu cầu phải cung cấp nhà cửa cho người có lợi tức thấp (kết quả là TT Johnson lập ra bộ Phát triển gia cư và thành thị - Housing and Urban Development),

- Chống bất bình đẳng nam nữ;
- Tranh đấu cho quyền của người đồng tình luyến ái (Gay Movement);
- Quan trọng nhất là “Phong trào Chống lại Quyền uy” (Anti-Establishment Movement), với những khẩu hiệu “phá nát nhóm chiếm ưu thế trong xã hội (tearing down the establishment), đứng lên đối mặt với nhóm quyền uy (“standing up to the establishment.”

Liên kết với phong trào này là nhiều nhóm đi biểu tình làm cho chính chúng tôi cũng lẫn lộn, như: Quân giải phóng Symbionese, Đảng Black Panthers, Malcolm X, Malvina Reynolds, Ron Paul, Noam Chomsky, Bernie Sanders, John Lennon, K-Rino, Anti-Flag, Terminator X, Gil-Scott Heron.

Rất ồn ào là phong trào Hippy với khẩu hiểu “Làm tình, đừng đánh nhau” (Make love not war).
Tuy rằng đa số thanh niên Mỹ đã tự nguyện, nhưng còn thành phần - tuy nhỏ nhưng rất ồn ào – sợ bị gọi nhập ngũ, nên tham gia biểu tình để chống chế độ quân dịch (DRAFT), nhưng cứ hô thật to lý do phản chiến, phản chiến là vì cuộc chiến này “vô nghĩa” (meaningless), “phí phạm” (wasteful), chính phủ nói dối, v.v..

Chứng cớ là khi TT Richard Nixon chấm dứt chế độ quân dịch vào ngày 1 tháng 7, 1973, thay thế bằng chế độ tự nguyện, thành lập quân đội tình ngyện (All Volunteer Army) thì phong trào biểu tình hầu như biến mất.

Cuộc chiến hiện nay tại Iraq-Afghanistan đã kéo dài tới 16 năm và chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm, tốn phí tới $2.4 ngàn tỷ (trillion). Theo ước tính của Đại học Harvard thì sẽ có thể tới $4 ngàn tỷ tới $6 ngàn tỷ, tốn hơn chiến tranh Việt Nam rất nhiều (khoảng $250 tỷ - tương đương $1.7 ngàn tỷ tính theo mãi lực 2017) và số quân nhân được điều động thay nhau tới chiến trường này ước tính cũng đã tới 2.5 triệu người (xấp xỉ bằng chiến tranh Việt Nam) mà sao trong 16 năm qua, biểu tình chống chiến tranh chỉ xảy ra lai rai trong mấy năm đầu: thí dụ như ở Los Angeles (2,500); San Francisco: 10,000 người. Lớn nhất là tại Washington (tháng 2/2002) khoảng 75,000 người. (Ta cũng nên để ý rằng: về số người tham gia trong tất cả các cuộc biểu tình thì thường hay có những ước tính khác nhau).

Từ đó, tức là trong 12 năm qua, không thấy có biểu tình. Dĩ nhiên là cuộc chiến này được biện luận với lý do chống phá hoại (terrorists) nhưng lý do Tổng Thống George W. Bush nhảy vào Iraq và những cáo buộc rằng ông đã nói dối (về lý do của cuộc chiến) thì vẫn còn là những vấn đề tranh luận (như đánh giá của Bob Woodward trong cuốn State of Denial).

Không đề cập đến kịch bản tháo chạy

Phần II của bộ phim nói về giai đoạn từ đầu 1969 tới tháng 4/1975: đó là thời gian mà vai trò chính yếu của Hoa Kỳ về “The Vietnam War” là của Cố Vấn (rồi kiêm Ngoại trưởng) Henry Kissinger. Thế mà phim không phỏng vấn ông Kissinger cho kỹ để tìm hiểu về kịch bản phản bội và tháo chạy.

Hầu như một mình, chỉ một mình ông Kissinger đã làm việc trong bóng tối, thao túng nền ngoại giao Hoa Kỳ. Có lần ông tâm sự với ký giả Oriana Fallaci: “Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi... Có thể là không có cả súng nữa…” (KĐMTC, trang 66-67).

Ông là một nhà ngoại giao thiên tài, nhưng đồng thời cũng là một con người mưu mô, gian dối - chúng tôi gọi là “Đao phủ Henry II,” người có trách nhiệm lớn trong việc bức tử VNCH (“Đao phủ Henry I” là ĐS Henry Cabot Lodge, người đã xúi bẩy tướng lãnh đảo chính và sát hại TT Diệm). Như vậy là Miền Nam đã thật xui vì gặp phải hai tay HENRY.

Phim không nói gì tới (rất có thể là B & N cũng không biết) sự kiện rất quan trọng là “bốn năm mật đàm của Kissinger (từ đầu 1969 tới cuối 1972) là hư vô” vì cuối cùng ông đã chấp nhận tất cả những đòi hỏi gói ghém trong 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng (MTGP) đưa ra từ năm 1969.

Kissinger còn nhượng bộ nhiều hơn đòi hỏi, đó là chấp nhận rút hết quân đội Mỹ nội trong 60 ngày. Lập trường đàm phán 10 điểm của MTGP đâu có đòi hỏi điều này (xem bảng so sánh Hiệp Định Paris và 10 điểm của MTGP trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 16). Trong bốn năm ấy, có tới gần 21,000 người quân nhân Mỹ thiệt mạng, tương đương bằng 36% tổng số tử thương của Mỹ trong cả cuộc chiến (58,200).
Trong bốn năm ấy, bao nhiêu thương vong, tàn phá, cho cả hai miền Nam, Bắc. Vụ ném bom B-52 tại Hà Nội cuối năm 1972 còn đào sâu thêm nữa hận thù Nam Bắc. Khi tôi hỏi TT Thiệu về vụ này, ông trả lời: “Nếu Kissinger có thể ném bom Dinh Độc Lập thì ông ta (TT Thiệu dùng chữ khác) cũng đã không ngần ngại.” Ông Thiệu cho rằng: nếu Mỹ cứ rút quân đi và không có Hiệp Định Paris thì có lợi hơn nhiều cho Miền Nam, vì ít nhất Quốc Hội Mỹ còn chút lương tâm, sẽ không cúp viện trợ quá đột ngột và quá nhanh chóng với lý do là Miền Nam đã có cả hòa bình, cả danh dự, như thế là đủ rồi.

Kissinger nhất quyết phải có được một hiệp định để chứng tỏ rằng ông đã thành công và giữ được sự tin cậy (credibility) của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Sự thực là ngượi lại (xem KĐMTC, chương 20).

Vì phim không soi sáng về những sắp xếp xảo quyệt của ông Kissinger để tháo chạy cho nên đã làm cho khán giả tiếp tục hiểu lầm về những gì đã dẫn tới bi kịch trong phần kết của cuốn phim: Sàigòn sụp đổ và ngày cuối cùng là thê lương ảm đạm.

Trong cuốn The Palace File (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập) (1986) chúng tôi có đề cập tới những sắp xếp của Kissinger (Chương 5 và 9). Chắc chắn rằng những nhà bình luận của phim The Vietnam War đã đọc cuốn này, vì có nhắc tới một câu nói đến việc TT Thiệu phàn nàn về “Mỹ đã tìm được nhân tình mới (Trung Quốc)…” nhưng không dẫn nguồn, mà chỉ nói “Ông Thiệu nói với một phụ tá.” Và chỉ có thế, không nhắc tới những tài liệu và bằng chứng về phản bội. Đây là một thiếu sót quan trọng vì Cuốn The Palace File đã được William Safire của tờ New York Times đánh giá là "Một cuốn sách làm ta mở mắt,” và The New York Times/ Book Review còn chọn nó cho các ứng cử viên Tổng Thống phải đọc: "Vừa Đọc Vừa Vận Động: Một Lớp Cấp Tốc Cho Chức Vị Tổng Thống.” Sách cũng được TT Ronald Reagan và cựu ngoại trưởng George Schultz trân trọng.

Mười năm sau cuộc chiến, Đại Sứ Martin đã đi tới kết luận: “Rút cuộc chúng ta chỉ phủi tay và tháo chạy” (In the end we simply cut and ran). Trong một buổi làm việc tại Trung Tâm Quân Sử Lục Quân Hoa Kỳ (có Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội VNCH và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I tham dự), Tướng William Westmoreland, cựu Tư lệnh quân lực Mỹ tại Việt Nam đã tóm gọn sự sụp đổ bằng ba chữ: "We betrayed you!" (Chúng tôi đã phản bội các ông).

Kết luận

Điểm son của phim The Vietnam War là đã phần nào lấy lại danh dự cho người quân nhân Mỹ vì họ đã phải chiến đấu trên một chiến địa khó khăn, hiểm trở, chấp nhận thương vong, rồi trở về thấy quê hương mình bị chia rẽ. Họ không được chào đón hân hoan như đoàn quân chiến thắng sau Thế Chiến II. Nhiều khi còn bị chế riễu.

Tuy nhiên bộ phim thiếu trung thực và thiên lệch. Burns và Novick chỉ nói đến “một nửa ly nước vơi” (half empty). Chúng tôi thấy đã có bài trên internet với chủ đề “Burns và Novick, những người thầy của quân bình sai lầm” (Burns and Novick, masters of false balancing).

Phim lấy tên là The Vietnam War mà lại không nói về lý do tại sao có cuộc chiến, và những gì đã thực sự xảy ra - Why Vietnam War? What Happened?

Như chúng tôi đã đề cập trong bài trước: lý do nhảy vào Việt Nam của năm tổng thống Hoa kỳ (Ngoại trưởng Foster Dulles còn dùng ba chữ “Take the plunge” - phải lao vào) là để bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ chứ không phải để bảo vệ tự do của người Miền Nam.

Sau cùng, thật đáng tiếc là bộ phim đã không rút ra được những bài học quan trọng cho Hoa Kỳ và đồng minh - What Lessons From The War? Chúng tôi đã tóm gọn một số bài học trong cuốn KĐMNV (Chương 28) và KĐMTC (Chương 20), thí dụ như “đừng can thiệp quá sâu vào nội bộ chính trị và quân sự của nước khác.”

Ta có thể đặt ra một câu hỏi: liệu bài học này có thể giúp cho nước Mỹ tránh được những lầm lỗi trong tương lai như đã lầm lỗi khi can thiệp quá sâu vào việc lật đổ chính phủ Mossadeq ở Iran và việc giải tán quân đội Iraq sau khi lật đổ Sadham Hussein, dẫn đến tình trạng sình lầy của nước Mỹ ngày nay ở Trung Đông hay không?








No comments:

Post a Comment