Tác
giả: Anja Manuel
The
Atlantic,
17 tháng 10, 2017
Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Thị
trấn Gwadar ở Pakistan cho đến gần đây vẫn tràn ngập những căn nhà gạch màu đất
bụi với khoảng 50.000 ngư dân. Bao quanh là những vách đá, sa mạc, và Biển Ả Rập,
đây là nơi tận cùng bị lãng quên của trái đất. Giờ thì nó là một trung tâm
trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc, và thị trấn nhờ thế mà
chuyển biến. Gwadar đang trải qua một cơn bão xây dựng: các cảng container mới
cứng, các khách sạn mới, và 2.900 km đường siêu cao tốc và đường sắt cao tốc để
kết nối nó với các tỉnh miền Tây nằm trong đất liền của Trung Quốc. Trung Quốc
và Pakistan muốn biến Gwadar thành một Dubai mới, trở thành một thành phố mà cuối
cùng sẽ là nơi cư ngụ của hai triệu người.
“Vành Đai & Con
Đương”
Trung
Quốc đang nhanh chóng trở thành đế chế thương mại bành trướng nhất trên thế giới.
Thử so sánh, sau Thế chiến II, Kế hoạch Marshall đã cung cấp một khoản tương
đương 800 tỷ USD cho các quỹ tái thiết châu Âu (nếu tính theo tỷ lệ phần trăm của
GDP ngày nay). Trong những thập niên sau chiến tranh, Hoa Kỳ cũng là quốc gia
thương mại lớn nhất thế giới và là nhà cho vay song phương lớn nhất cho các nước
khác.
Giờ
thì đến lượt Trung Quốc. Quy mô và phạm vi của sáng kiến Vành đai và Con đường
là rất lớn. Có nhiều ước tính, nhưng hơn 300 tỷ USD đã được bỏ ra, và Trung Quốc có kế hoạch chi
thêm 1 nghìn tỷ USD trong thập niên tới. Theo CIA, 92 nước đã coi Trung Quốc là đối tác xuất khẩu hoặc nhập
khẩu lớn nhất vào năm 2015, cao hơn nhiều so với Hoa Kỳ với 57 nước. Đáng kinh
ngạc nhất là tốc độ mà Trung Quốc đạt được điều này. Trong khi là nước tiếp nhận
các khoản vay lớn nhất thế giới của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển
Châu Á trong những năm 1980 và 1990, trong những năm gần đây, chỉ riêng Trung Quốc đã cho các nước đang phát
triển vay nhiều hơn so với Ngân hàng Thế giới.
Không
như Hoa Kỳ và châu Âu, Trung Quốc đã sử dụng viện trợ, thương mại, và đầu tư trực
tiếp nước ngoài để xây dựng thiện chí, mở rộng ảnh hưởng chính trị, và đảm bảo
các nguồn tài nguyên cần thiết để phát triển. Vành đai và Con đường là ví dụ ấn
tượng nhất của điều này. Đây là một sáng kiến bảo trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng
hiện tại và tương lai. Trong những thập niên tới, Trung Quốc có kế hoạch xây dựng
một mạng lưới cơ sở hạ tầng rộng khắp châu Á và, thông qua các sáng kiến tương
tự, trên toàn thế giới.
Hầu
hết nguồn vốn sẽ được rót dưới hình thức cho vay, chứ không phải tài trợ, và các doanh nghiệp nhà nước
Trung Quốc cũng sẽ được khuyến khích đầu tư. Có nghĩa là, ví dụ, nếu Pakistan
không trả được nợ thì Trung Quốc có thể sở hữu nhiều mỏ than, đường ống dẫn dầu,
và các nhà máy điện của nước này, và từ đó có một quyền lực ảnh hưởng to lớn tới
chính phủ Pakistan. Trong khi đó, Trung Quốc có quyền khai thác cảng Gwadar
trong 40 năm.
Vành
đai và Con đường là sáng kiến chính sách đối ngoại lớn nhất của Trung Quốc cho
đến nay, nhưng nó không phải là Kế hoạch Marshall. Bắc Kinh không làm điều này
vì lòng vị tha, hay vì mong muốn giúp ổn định các nước mà nó cho vay. Vậy tại
sao lại chi những khoản tiền khổng lồ đó vào các nước láng giềng? Thứ nhất,
Trung Quốc đang quá phụ thuộc vào duyên hải miền Đông và eo biển Malacca hẹp gần
Singapore để đưa hàng hóa ra vào lãnh thổ rộng lớn của mình; ví dụ, hơn 80% lượng
dầu của nước này đi qua eo Malacca. Do đó việc xây dựng các tuyến đường thương
mại đi qua Pakistan và Trung Á sẽ rất có ý nghĩa. Vành đai và Con đường cũng
giúp Trung Quốc đầu tư nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ của mình và đưa nhiều
doanh nghiệp nhà nước đang nhàn rỗi vào hoạt động.
Sáng
kiến này cũng có một tác động phụ tích cực đối với Bắc Kinh: Một số quan chức
chính phủ của Trung Quốc đã nói cụ thể rằng đây là chuyện cạnh tranh với Hoa Kỳ.
Ít nhất, nó tạo đòn bẩy khiến nhiều nước nhỏ hơn cảm thấy mang ơn Trung Quốc về
mặt kinh tế.
Vậy
thì điều này có ý nghĩa gì đối với “trật tự quốc tế tự do” mà Hoa Kỳ đã góp phần
rất lớn để tạo ra và duy trì trong bảy thập niên qua? Tác động không phải là
hoàn toàn xấu.
Nếu
mục đích của trật tự ấy là bảo đảm hòa bình và thịnh vượng thì có nhiều cách mà
tiền vốn của Trung Quốc có thể bổ sung cho nó. Các
nước giao thương nhiều hơn thì nói chung ít thù địch hơn, không chỉ với
các đối tác thương mại, mà còn với thế giới nói chung. Do đó, theo cách của
riêng mình, Trung Quốc đang giúp duy trì hòa bình quốc tế. Nhưng ngay cả khi có
ít cuộc chiến liên quốc gia hơn dưới “Pax Sinica” [nền hòa bình Trung Quốc] đi
chăng nữa thì một kỷ nguyên mà nhiều quốc gia nhỏ “nhận vốn” mang ơn Trung Quốc
cũng có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ khó áp đặt ý chí của mình lên nhiều vấn đề khác – từ
chống khủng bố đến áp đặt lệnh trừng phạt lên các quốc gia đối đầu với phương
Tây.
Về
vấn đề thịnh vượng, tác động kinh tế của Trung Quốc đối với các nước mà nó cho
vay đến nay có vẻ cùng lắm là có tốt có xấu. Trong khi khoảng 20% vốn mà Trung
Quốc đưa ra dưới dạng viện trợ truyền thống có giúp các nền kinh tế địa
phương thì hầu hết lại đến dưới dạng các khoản vay, vốn không hữu ích như vậy.
Các học giả quan sát đầu tư của Trung Quốc vào châu Phi từ năm 1991 đến năm
2010 thấy rằng sự trợ giúp của Trung Quốc dường như không giúp tăng trưởng kinh
tế, và hàng nhập khẩu rẻ tiền của Trung Quốc thường thay thế các công ty địa
phương của Châu Phi và do đó làm giảm việc làm trong các doanh nghiệp nhỏ.
Trung Quốc thường đòi hỏi các nước nhận vốn sử dụng các công ty Trung Quốc để
xây dựng đường xá và cảng, và đến tận gần đây vẫn không đào tạo nhân viên địa
phương. Ví dụ, ở Pakistan có 7.000 người Trung Quốc làm việc trên hành lang
kinh tế, được bảo vệ bởi gần 15.000 nhân viên an ninh người Pakistan. Điều này đã
thay đổi gần đây. Khi tiền lương cho người Trung Quốc tăng lên, sử dụng lao động
địa phương là hợp lý. Cách đây vài tháng, một công ty Trung Quốc đã bắt đầu đào
tạo hàng trăm kỹ sư Pakistan để làm việc ở một công trình năng lượng gần Karachi,
và các dự án khác của Trung Quốc cũng đang sử dụng nhiều người dân địa phương
hơn.
Ngoài
ra, trong khi trước đây các khoản vay của Trung Quốc thường có lãi suất thấp
khoảng 2,5% thì hiện nay nó đang tăng lên đến gần 5% hoặc hơn. Điều này sẽ khiến
trả nợ khó hơn. Trong khi các nước nhận vốn của Trung Quốc sẽ rất vui nếu khắc phục được tình
trạng thiếu điện và cải thiện đường xá thì họ có thể lại đang thế chấp tương
lai của mình.
Có
lẽ thách thức lớn nhất mà nỗ lực của Trung Quốc đặt ra với “trật tự quốc tế tự
do” là, trái với hầu hết các khoản viện trợ và cho vay của phương Tây, các dự
án Vành đai và Con đường thường khuyến khích các tiêu chuẩn quản trị, môi trường,
và nhân quyền ở mức tồi tệ, mặc dù hồ sơ của Trung Quốc về vấn đề này đã phần
nào cải thiện trong vài năm qua.
Trung
Quốc thường là nhà đầu tư lớn nhất ở các nước mà các quốc gia khác
đang tẩy chay – bởi vì họ được điều hành bởi những kẻ độc tài, không tôn trọng
nhân quyền, và tham nhũng – chẳng hạn như Zimbabwe, Triều Tiên, Cộng hòa Niger,
Angola, và Myanmar. Tổng thống Uganda Yoweri Museveni – không hề là người bảo vệ
nhân quyền – giải thích rằng ông thích các khoản đầu tư của Trung Quốc là vì họ “không đặt
quá nhiều câu hỏi,” và “đi kèm với… tiền lớn, chứ không phải tiền nhỏ.” Tất
nhiên, trong khi ngày nay Mỹ và châu Âu nhấn mạnh những tiêu chuẩn cao cho các
dự án viện trợ của họ thì cả các công ty lẫn các chính phủ của họ cũng có những
hồ sơ tồi tệ về nhân quyền và môi trường khi họ mở mang đến Ấn Độ, châu Phi, và
châu Mỹ Latinh trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Về
an toàn lao động và môi trường, khi lần đầu ra nước ngoài thì các tiêu chuẩn của
Trung Quốc thường rất tồi tệ. Ở một số khu vực, các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn để lại những thợ mỏ
chưa được trả lương, những cánh rừng bị tàn phá, và những con sông bị ô nhiễm.
Nhưng Trung Quốc đang học hỏi nhanh chóng. Năm 2017, chính phủ Trung Quốc công
bố các hướng dẫn mới, nghiêm ngặt hơn cho các nhà đầu tư ra nước
ngoài. Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng mới của Trung Quốc, AIIB, muốn áp dụng
các tiêu chuẩn đẳng cấp thế giới, và nhiều công ty Trung Quốc – bao gồm gã khổng
lồ trong ngành dầu khí quốc gia, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc
(CNOOC) – cũng đang cải thiện nhanh chóng.
Nếu
Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy kế hoạch địa kinh tế của mình thì đó sẽ là di sản
lớn nhất của họ và có tác động sâu sắc đối với thế giới – không nhất thiết là
hoàn toàn tiêu cực. Khi không có 1 nghìn tỷ USD để chi cho cơ sở hạ tầng ở các
nước đang phát triển trong một trò chơi vĩ đại mới, lựa chọn tốt nhất của
phương Tây có lẽ là hợp tác và định hình tham vọng khổng lồ này. Nếu sáng kiến
Vành đai và Con đường thành công thì đường xá sẽ thuận lợi hơn, hậu cần sẽ
nhanh hơn, và các nước xa cách các thị trường thế giới sẽ có thể giao thương
nhiều hơn. Nếu nghiên cứu trích dẫn trên đây là đúng thì nó sẽ giúp giảm bớt
các cuộc chiến liên quốc gia, dù nhiều nước nhỏ sẽ mang ơn Trung Quốc. Chủ tịch
Tập đã nhấn mạnh trong hai chuyến thăm Hoa Kỳ năm 2015 và 2017, và ở Davos, rằng
Trung Quốc muốn có một hệ thống quốc tế công bình hơn, nhưng không muốn làm trật
tự quốc tế sụp đổ. Bằng cách khuyến khích Trung Quốc nâng cao các tiêu chuẩn
lao động, nhân quyền, và môi trường trong các dự án của họ, thế giới sẽ bắt ông
Tập phải giữ lời.
*
Bài
viết này được chuyển thể từ một chương trong một ấn phẩm sắp phát hành của Nhóm
Chiến lược Aspen, một chương trình chính sách của Viện Aspen ở Washington, D.C.
Anja
Manuel là
đồng sáng lập doanh nghiệp tư vấn chiến lược RiceHadleyGates LLC, giảng viên
Chương trình Nghiên cứu Chính sách Quốc tế tại Đại học Stanford, và tác giả cuốn
This Brave New World: India, China and the United States (Simon and Schuster,
2016).
Nguyễn
Huy Hoàng là
cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
Nguồn bản gốc: https://www.theatlantic.com/international/archive/2017/10/china-belt-and-road/542667/
*
*
Related
No comments:
Post a Comment