H. Minh
15:50 11/08/2013
Cơn lũ vào tháng
8-1971 đã làm vỡ đê sông Hồng và 100.000 người đã bị thiệt mạng, thiệt hại hàng
chục nghìn tỉ đồng.
Theo
tư liệu của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương, do ảnh hưởng của tổ
hợp tác động của dải hội tụ nhiệt đới, rãnh thấp nóng phía tây kết hợp cao áp
Thái Bình Dương, từ ngày 12 đến 21-8-1971 đã xảy ra mưa to đến rất to ở Bắc bộ
với lượng mưa bình quân lưu vực sông Hồng là 255 mm, đồng bằng Bắc bộ khoảng
200 mmm.
Một
số nơi có lượng mưa trên 300 mm như Sìn Hồ 454 mm, Sa Pa 381 mm, Lào Cai 386
mm. Theo đó, vùng hạ lưu sông Hồng, sông Thái Bình đã xảy ra trận lũ lịch sử với
đỉnh lũ tại Hà Nội là 14,13m (vượt báo động 3 2,63m) và duy trì trên báo động 3
trong 8 ngày; tại Phả Lại là 7,21m, vượt báo động 3 1,71m, duy trì trên báo động
3 trong 12 ngày. Lũ trên hệ thống sông Đáy ở mức trên dưới báo động 3.
Từ
ngày 19-8-1971, lũ trên nhiều sông tràn bờ, gây vỡ đê ở nhiều nơi. Cụ thể, ngày
19-8, tràn vỡ các đê ở hạ lưu sông Lô, sông Đà và tả ngạn sông Hồng thuộc huyện
Vĩnh Tường, đê bối Thanh Trì phía hữu ngạn sông Hồng. Đối phó tình huống, hồi
4h ngày 20-8 phải mở đập Vân Cốc, phân lũ vào sông Đáy và cùng lúc đó đã vỡ đê
Lâm Thao.
Trong
ngày 21-8, nhiều đoạn đê Vĩnh Lại, Cao Xá, Minh Nông và đê Khê Thượng trên sông
Đà bị vỡ hàng trăm mét, có nơi hơn 600 m. Ngày 22-8 tiếp tục vỡ đê Cống Thôn ở
tả ngạn sông Đuống với chiều rộng 250 m, sâu từ 18-24 m. Trong ngày 22 và ngày
23-8, nhiều tuyến đê khác tiếp tục vỡ, gây ngập lụt diện rộng ở đồng bằng Bắc bộ.
Cũng
theo tư liệu của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương, theo thời giá
năm 1971, tổng thiệt hại phần tài sản Nhà nước thuộc trung ương quản lí khoảng
44.225.000 đồng, trong đó về nhà cửa, kho tàng bị ngập và trôi là 120.361 cái,
về công nghiệp khoảng 3.670.000 đồng, về nông nghiệp khoảng 1.140.100 đồng, về
công trình thuỷ lợi khoảng 8.884.200 đồng, về giao thông và bưu điện khoảng
10.025.000 đồng và nhiều thiệt hại khác. Nếu quy đổi theo mức lương cơ bản hiện
nay thì giá trị thiệt hại của trận lụt là hơn 10 nghìn tỉ đồng. Ngoài ra, thiệt
hại của nhân dân và các địa phương do bị ảnh hưởng lũ lụt, dịch bệnh, ngừng trệ
sản xuất không thể tính hết được.
Theo
tài liệu nước ngoài, trận lụt này khiến 100.000 người thiệt mạng, là cơn lũ lớn
nhất trong vòng 250 năm ở miền Bắc Việt Nam và được liệt kê trong danh sách các
trận lụt lớn nhất thế kỉ 20 của Cơ quan Quản trị hải dương và khí tượng Hoa Kỳ,
đứng hàng nhì thế giới sau trận lụt năm 1931 ở sông Dương Tử (Trung Quốc) làm
thiệt mạng gần 3,7 triệu người. Mức độ thảm khốc của cơn "đại hồng thủy"
này đứng thứ hai sau trận lụt năm 1931 ở sông Dương Tử tuy sông Hồng chỉ thuộc
cỡ trung bình trên thế giới.
Theo
ký ức của nhiều người chứng kiến trận lũ năm ấy, đó là trận lũ đáng sợ nhất từ
trước đến giờ mà họ từng biết đến. Đứng trên đê Nhật Tân nhìn bốn bề mênh mông
nước, nóc ga Hàng Cỏ chỉ tương đương nước sông Hồng ở mức báo động 2. Chân cầu
Long Biên nước dâng mấp mé, chỉ chờ gió mạnh là dập dềnh chảy qua đê.
Đã
hơn 40 năm trôi qua nhưng PGS-TS Hà Đình Đức vẫn nhớ như in cái ngày đó, khi
ông đang đứng trên lớp giảng dạy thì nhận được tin của ban giám hiệu nhà trường
huy động đi cứu kho lương thực. "Hồi ấy tôi là giảng viên Trường ĐH Tổng hợp.
Hôm đó, tôi đang dạy học thì nhận được thông báo của nhà trường huy động toàn bộ
giảng viên, sinh viên đi cứu kho lương thực vì đê Mai Lâm bị vỡ. Bên bờ bên này
sông Đuống không bị ảnh hưởng gì nhưng bên kia thì ngập hết" - ông Đức kể.
Cũng theo ông Đức, sau trận lụt năm đó, người dân Hà Nội cũng như nhiều tỉnh miền
Bắc phải ăn gạo ướt, gạo mốc trong thời gian dài. Nhiều nhà "đổi món"
bằng cách mang gạo đổi cho hàng bún.
H.Minh
No comments:
Post a Comment