20/11/2015
Chủ
nhật 22 tháng 11 là ngày phát tang nhà văn Phùng Nguyễn. Nhân dịp này VOA Tiếng
Việt xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả một di cảo của nhà văn vừa tạ thế
như một lời vĩnh biệt của ông với bạn đọc, bằng hữu cùng những người ngưỡng mộ
ông. Đây là blog cuối cùng của ông, nhưng chúng tôi tin rằng những lý tưởng và
giá trị nhân bản mà ông và các thi văn hữu của ông bảo vệ và cổ xúy qua cột
blog do ông chủ xướng sẽ không bao giờ bị mai một, cho dù “Mệnh Trời” có như thế
nào đi nữa.
*
Hai ngày viếng thăm Việt Nam ở cấp độ quốc gia của Tập
Cận Bình đã trôi qua, nhưng dư âm của nó thì phải còn khá lâu mới chìm xuống.
Nhìn chung, đây là một sự kiện chính trị rất êm thấm nếu tính đến những “khác
biệt” chưa được giải quyết thỏa đáng giữa hai quốc gia, nổi bật nhất là những
tranh chấp lãnh hải ở biển Đông. Ngoài một vài cuộc biểu tình nhỏ nhanh chóng bị
dập tắt một cách khá tàn bạo bởi lực lượng công an của nhà nước, những tiếng ồn
ào còn lại đến từ 21 phát đại bác và những tràng pháo tay giòn giã của đại biểu
quốc hội dành cho thượng khách quốc gia Tập Cận Bình và phu nhân.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng
Không ai đủ
ngây thơ để tin rằng Tập Cận Bình đã bỏ thì giờ quí báu của mình đến thăm Việt
Nam chỉ để… phát chẩn (gồm chút đỉnh tiền bạc và vài câu thơ Đường) và rao giảng
về tình cảm chính quyền và nhân dân Trung Hoa dành cho Việt Nam. Đa số quan sát
viên tin rằng Tập Cận Bình đến Việt Nam để gây áp lực với đảng và chính quyền cộng
sản Việt Nam (CSVN) ở nhiều lãnh vực, trong đó quan trọng nhất có thể là thành
phần nhân sự chóp bu của đảng CSVN trong nhiệm kỳ tới và cung cách ứng xử của
Việt Nam về những xung đột quyền lợi ở biển Đông. Chúng ta không biết chắc những
thỏa thuận ngầm nào đã được ký kết, nhưng dựa trên những sự việc xảy ra kể từ hội
nghị Thành Đô (tháng 9 năm 1990), có rất ít lý do để cho rằng Tập Cận Bình đã
ra về với hai bàn tay trắng. Bởi vì tập đoàn lãnh đạo CSVN không quen nói
“không” với thiên triều. Theo sử gia Tạ Chí Đại Trường (TCĐT), một cựu sĩ quan
Việt Nam Cộng hòa (VNCH), sự “ngoan ngoãn” của các nhà lãnh đạo ViệtNam không
chỉ đơn giản đến từ quan hệ đàn anh đàn em giữa hai đảng cầm quyền mà còn là sự
kế thừa từ quan hệ lịch sử văn hóa giữa hai nước, vốn có nguồn gốc tự ngàn xưa.
*
Hồi cuối tháng 7 năm nay (2015), tôi có cơ hội trao
đổi với sử gia Tạ Chí Đại Trường (TCĐT). Tôi gửi hai câu hỏi qua email để nhờ
ông giải đáp. Nguyên văn hai câu hỏi như sau:
1. Các yếu tố tạo nên tâm lý thần phục thiên triều của
các vương triều Việt Nam trong lịch sử?
2. Đảng cộng sản Việt nam có mang tâm lý thần phục Bắc Kinh hay không, và tại sao?
2. Đảng cộng sản Việt nam có mang tâm lý thần phục Bắc Kinh hay không, và tại sao?
Mặc dù sức khỏe bắt đầu suy sụp từ nhiều tháng trước
đó, sử gia TCĐT đã cố gắng hồi đáp khá nhanh, cũng qua phương tiện email. Trước
hết, TCĐT cho rằng hai câu hỏi “níu kéo” nhau “vì cũng chỉ là chuyện quan hệ Việt-Trung
mà thôi”. Ông xác nhận tâm lý thần phục Trung Hoa là hoàn toàn có thật, và tâm
lý này mang nặng tính lịch sử và văn hóa. Về mặt địa lý, hai nước kề cận nhau
thì chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, và theo lẽ thường, “thằng nhỏ phải thua thằng
lớn”. Đối với nước nhỏ, đánh nhau là chuyện bất đắc dĩ, ngay cả khi thắng trận,
giành lại được ngôi vị thì vẫn phải xưng thần để cảm ơn nước lớn đã không… đánh
tiếp và đã phong chức cho mình. Điều này xảy ra nhiều lần trong lịch sử vẻ vang
dựng nước và giữ nước của dân đất Việt, “lâu ngày thành thói, có chuyện tranh
giành trong nước, bị thua thì kéo nhau qua Tàu nhờ phân xử, như họ Trần cầu viện
Minh đánh Hồ Quý Li, Trịnh Lê cầu Minh đánh Mạc, Lê Chiêu Thống v.v..”. Theo
TCĐT, chính là vì vậy mà cái thế “nước nhỏ” càng lúc càng thấp thỏi, phải chịu
đựng một thứ tâm thức Phiên thuộc, kéo dài thành một thứ ông gọi là “Hội chứng
Phiên thuộc”.
Sử gia TCĐT cho biết thêm cái hội chứng phiên thuộc
còn có gốc rễ sâu xa từ áp lực nặng nề của văn hóa Hán. Theo ông, “các nho sĩ
làm quan được là nhờ chữ Hán, sống trong khung trời Hán học nên có lúc tưởng
mình là người phương Bắc, không được thì cũng ráng nghĩ làm sao cho có dạng
phương Bắc”. Ông dẫn chứng: “Quyển Toàn thư dịch ra tiếng Việt, ví dụ có chữ
‘nước ta’ thật ra trong bản văn gốc nó là ‘ngã Trung Quốc nhân’ (1). Sách triều
Nguyễn không xưng là dân Việt mà xưng là ‘dân Hán’, còn người Tàu là ‘Đường
nhân’”.
Liên kết tâm lý phiên thuộc này với giới lãnh đạo
CSVN thuộc nhiều thời kỳ, TCĐT nhận xét: “Cái tâm lí [phiên thuộc], kiến thức
đó âm ỉ trong phần lớn đám cộng sản ngoài Bắc khiến họ thấy thân thiện một
cách tự nhiên khi nhờ cậy [Trung quốc] từ những năm 1950. Cú xung đột 1979 vì
Tàu chận âm mưu làm bá chủ Đông Dương của nhóm Lê Duẩn kiêu ngạo chiến thắng
nhưng chiến tranh biên giới, Kampuchia làm các anh cũng ê mình, lớp người nối
tiếp tất nhiên không có dũng khí của cha anh nên không những phải chịu Tàu lấn
lướt mà tâm thức phiên thuộc trỗi dậy nên có lời phân trần chính thức của nhà
chức trách Đảng ‘Từ xưa ta cũng phải xưng thần’”.
*
Cái hội chứng phiên thuộc này được hăng hái kế thừa
bởi các lãnh tụ CSVN rất sớm. Có thể một phần của cái cảm giác “thân thuộc” họ
dành cho đất nước Trung Hoa đến từ thực tế là hầu hết các lãnh tụ tiền phong của
đảng CSVN đã sinh sống và hoạt động ở đây ngay từ những năm 1930. Hội nghị thống
nhất các tổ chức CSVN do Nguyễn Ái Quốc triệu tập và Đại hội Đại biểu Toàn quốc
đầu tiên đã diễn ra ở Hong Kong và Macao thuộc lãnh thổ Trung quốc chứ không phải
ở Việt Nam. Vào đầu những năm 1950, hội chứng Phiên thuộc dưới một dạng thức mới,
một tôn ti mới, “đàn anh đàn em”, ngày càng rõ nét với sự “ngoan ngoãn” của tập
đoàn lãnh đạo CSVN trong việc thực hiện chương trình Cải Cách Ruộng Đất theo chỉ
thị của cố vấn Trung Quốc một cách sít sao. Vào năm 1958, công hàm mà nhiều người
cho rằng mang tính bán nước của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thấy tâm lý lệ
thuộc tự nguyện của đám chóp bu CSVN đã lên đến cao độ. Điều này tiếp tục vào
năm 1974, khi hải quân Trung quốc sát hại 74 thủy thủ VNCH và chiếm trọn quần đảo
Hoàng Sa. Chính quyền Hà nội đã không hề mở miệng phản đối. Không những vậy,
theo nhà báo Bùi Tín, cựu đại tá Quân đội Nhân dân, cựu phó tổng biên tập nhật
báo Nhân Dân, “đồng chí” Lê
Đức Thọ đã trấn an mọi người: “Hãy yên tâm, Hoàng Sa trong tay các
đồng chí Trung quốc còn hơn là trong tay ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ”.
Làm thế nào mà một người dân Việt Nam bình thường có
thể yên tâm giao trứng cho ác? Nhiều năm trước khi Trung quốc đánh chiếm Hoàng
Sa, một người lính VNCH khác, học giả Phạm Việt Châu, bút danh của cố Trung tá
Phạm Đức Lợi, đã lên tiếng cảnh báo không chỉ Việt Nam mà toàn thể Đông Nam Á về
mối họa Trung quốc trong chuỗi bài viết “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh”
đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa (Sài gòn) trong những năm 1969 – 1974. Một
cách sáng suốt, tác giả chỉ ra rằng “nhân dân Đông Nam Á không có vấn đề Trung
Cộng riêng rẽ mà chỉ có vấn đề Tàu. Tàu thì lúc nào cũng chỉ là Tàu, và cái mưu
đồ theo đuổi tận diệt bằng cách đồng hoá các dân tộc nhỏ yếu xung quanh (dưới
hình thức này hay hình thức khác) từ xưa đến nay cũng vẫn thế”.
Xung đột biên giới Tây Nam với Campuchia vào nửa sau
những năm 1970 dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung quốc phát động
vào năm 1979 với tuyên bố xấc xược của Đặng Tiểu Bình “dạy cho [đàn em] Việt
Nam một bài học”. Đây thật ra là cơ hội rất tốt để CSVN gỡ cái tròng băng đảng
anh em vô sản quốc tế ra khỏi đầu mình. Cũng chỉ được một số năm, cho đến khi hải
quân Trung quốc đánh chiếm quần đảo Trường sa và sát hại 64 chiến sĩ Việt Nam
vào năm 1988. Phản ứng của chính phủ Việt Nam đối với sự kiện quan trọng này,
nhìn ở góc độ bao dung nhất, được cho là vô cùng yếu ớt. Không bao lâu sau đó,
nhiều văn kiện quan trọng (vẫn còn nằm trong vòng bí mật sau một phần tư thế kỷ)
được ký kết giữa lãnh đạo hai nước tại hội nghị Thành Đô vào tháng 9 năm 1990.
Điều đáng lưu ý là vị trưởng lão cố vấn cho phái đoàn CSVN không ai khác hơn là
cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đã ký công hàm 1958 thừa nhận chủ quyền của
TQ trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách mau mắn! Như vậy, sau một thập kỷ
tương đối độc lập, giới chóp bu CSVN lại quay về thần phục thiên triều, không
phải vì nhu cầu ích nước lợi dân mà chính vì sự sống còn của đảng CSVN ngay vào
thời điểm hệ thống cộng sản ở Đông Âu đang trên đà sụp đổ. Đây chỉ là một trong
số không ít lần đảng CSVN đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi của tổ quốc
và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Đúng như sử gia TCĐT nhận xét, “quyền lợi
lớn quá nên không thể để mất đảng…”.
*
Từ sau hội nghị Thành Đô, có nhiều dấu hiệu cho thấy
sự nhượng bộ, đôi khi tự nguyện, của chính quyền Việt Nam trong một số lãnh vực.
Hiệp ước Biên giới (trên đất liền) năm 1999 vẫn tiếp tục là điều được dư luận
nhắc nhở mỗi khi quan hệ Việt-Trung được mang ra thảo luận. Trong khi phe thân
chính quyền khăng khăng cho rằng đây là một hiệp ước công bằng, bài học địa lý
quen thuộc của nhiều thế hệ học sinh Nam Bắc vốn luôn luôn có câu “Nước Việt
Nam hình cong như chữ S, kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu” đã không còn
đúng với thực tế! Ngoài ra, Việt Nam thường tỏ ra dè dặt một cách thái quá khi
phải đối đầu với Trung quốc, tránh né đến mức tối đa việc buộc Trung quốc phải
nhận trách nhiệm trong việc thay đổi hệ sinh thái sông Mekong, ảnh hưởng vô
cùng tiêu cực lên đời sống hàng chục triệu dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Gần đây, có những bằng chứng cho thấy Ủy
ban Sông Mekong do chính quyền lập ra đã sản xuất một báo cáo mà kết
quả đi ngược lại các công trình nghiên cứu quốc tế liên hệ về hậu quả nghiêm trọng
do việc xây cất các con đập ở thượng nguồn sông Mekong (thuộc lãnh thổ Trung quốc).
Về hiểm họa này, từ hơn 15 năm trước, nhà văn, bác
sĩ quân y (VNCH) Ngô Thế Vinh, đã lên tiếng báo động với các “tiểu thuyết dữ kiện” Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (xuất bản lần đầu năm 2000) và Mekong,
Dòng Sông Nghẽn Mạch (xuất bản lần đầu năm 2007) cùng nhiều bài biên
khảo, tiểu luận liên quan đến hệ sinh thái sông Mekong mà ông cho ra đời khá
thường xuyên. Gần đây nhất là các bài viết “Năm Nay 2015 Không Có Mùa Nước Nổi”
và “Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ – Miền
Tây Đau Thắt Ngực” để chỉ ra cái hiểm họa mà ông và các thân hữu trong Nhóm
bạn Cửu Long lên tiếng báo động từ lâu nay đã trở thành một tai họa có
thật đang giáng xuống đầu người dân vùng châu thổ sông Cửu Long (Việt Nam) và
vùng biển Hồ Tonle Sap (Campuchia). Điều đáng chú ý là bài viết “Thoi Thóp Trái
Tim Biển Hồ – Miền Tây Đau Thắt Ngực” chỉ ra sự ngoan cố của Hun Sen, đương kim
thủ tướng Campuchia, người vẫn khăng khăng bào chữa cho Trung quốc trong khi bằng
chứng các con đập thượng nguồn ở Trung quốc là thủ phạm gây ra tình trạng khô
kiệt ở vùng Biển Hồ là điều không thể chối cãi. Xem ra về mặt cúc cung tận tụy
với thiên triều, đảng CSVN nay đã có một đối thủ đáng gờm.
*
Không ít người cho rằng lần viếng thăm Việt Nam vừa
qua của Tập Cận Bình là một cơ hội rất tốt cho chính quyền Việt Nam gửi đến người
cầm đầu Trung quốc một thông điệp rõ ràng về “dáng đứng Việt Nam” trong quan hệ
đối ngoại, đặc biệt trong vấn đề tranh chấp lãnh hải ở biển Đông. Chỉ trong ít
ngày trước cuộc thăm viếng, một số biến cố thuận lợi cho Việt Nam liên tiếp diễn
ra. Ngày 27 tháng 10, 2015, khu trục hạm Lassen của Mỹ xâm nhập vùng “12 hải
lý” của đảo nhân tạo Subi thuộc quần đảo Trường Sa nhằm phủ nhận “chủ quyền” mà
Trung quốc ngang ngược tuyên bố trước đó. Sau đó ít hôm là vụ Philipines kiện
Trung quốc về chủ quyền trên biển Đông được tòa án quốc tế đặt ở Hòa Lan nhận
thụ lý. Kế đến, bộ trưởng quốc phòng Nhật thăm Cam Ranh, đề nghị tập trận chung
v.v… Tuy vậy, dựa trên cách ứng xử của nhà cầm quyền chung quanh lần viếng thăm
của chủ tịch Tập Cận Bình, không có dấu hiệu nào cho thấy giới lãnh đạo CSVN đã
tận dụng những biến chuyển thuận lợi này để mạnh dạn đương đầu với áp lực của vị
khách đến từ phương Bắc. Theo thiển ý, hành động đàn áp những người biểu tình
chống bành trướng Bắc Kinh không chỉ tô đậm thêm hình ảnh tiêu cực của chính
quyền Việt Nam về mặt nhân quyền trong mắt giới quan sát quốc tế mà còn là điều
vô cùng thất sách, gây bất lợi cho công cuộc tranh đấu giành lại chủ quyền biển
đảo. Nếu buộc phải né tránh việc công khai thách đố Tập Cận Bình về chủ quyền
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì tâm lý Phiên thuộc hay vì một lý do nào
khác, Việt Nam vẫn có thể lợi dụng các cuộc biểu tình này để gián tiếp bày tỏ vị
trí của chính quyền và tâm tư của nhân dân Việt Nam đối với cuộc tranh chấp
lãnh thổ đang xảy ra giữa hai quốc gia. Bằng cách dập tắt những cuộc biểu tình,
chính quyền Việt Nam đã không chỉ vùi dập tiếng nói chính đáng của người dân mà
còn tự làm suy yếu tư thế đàm phán của chính mình.
*
Người cộng sản, kiêu ngạo một cách vô căn cứ, luôn
cho rằng họ xứng đáng hơn bất cứ ai hết để cai trị đất nước và nhân dân Việt
Nam. Những tuyên bố theo kiểu “còn đảng còn mình” hay “mất đảng mất đảo” cho thấy
đối với họ việc đảng này giành độc quyền lãnh đạo đất nước trong gần ba phần tư
thế kỷ là chuyện… trời cho, là mệnh Trời.
Mệnh Trời hay mệnh con Trời?
Phùng
Nguyễn
11.08.2015
11.08.2015
Ghi
chú:
(1) Về cụm từ “ngã Trung quốc nhân”, sử gia TCĐT phụ
chú là ông “không nhớ rõ [một cách] chính xác”
--------------------------
20 THÁNG 11, 2015
22 THÁNG 10, 2015
19 THÁNG 10, 2015
07 THÁNG 10, 2015
24 THÁNG 9, 2015
11 THÁNG 9, 2015
08 THÁNG 9, 2015
02 THÁNG 9, 2015
27 THÁNG 8, 2015
19 THÁNG 8, 2015
14 THÁNG 8, 2015
05 THÁNG 8, 2015
28 THÁNG 7, 2015
21 THÁNG 7, 2015
16 THÁNG 7, 2015
No comments:
Post a Comment