Thứ Sáu, 05/26/2017 - 21:12 — tuongnangtien
Tao vui vì luôn nhìn thấy Đảng loạng choạng
lùi, trước thằng ... Thời Đại.
Ngôi chùa duy nhất mà tôi biết rõ từng viên
gạch (và từng gốc cây/ bụi cỏ) có tên là Linh Sơn Tự, trên Cao Nguyên
Lâm Viên. Khi còn bé thơ, còn “lon xon như con với mẹ,” tôi vẫn thường
theo bà đi lễ – đều đặn – vào những ngày rằm và mùng một.
Đây là đất Phật nên bà yên tâm để tôi tha thẩn
khắp nơi, suốt buổi, trong khi bận rộn với việc công quả. Tôi cũng
bận luôn. Bận tìm rau cho rùa ăn, bận bắt chuồn chuồn/bươm bướm/bọ
cánh vàng, bận trèo cây, bận hái hoa trà, bận ngồi nhong nhong trên
đôi rồng đá nằm chầu – song song – bên những bậc thang dẫn vào chính
điện.
Cho đến khi biết đọc, và có thể đi giang hồ
(vặt) một mình thì tôi thôi không theo mẹ lên chùa nữa. Boring thấy
bà luôn! Với thời gian, và qua những bộ chuyện kiếm hiệp của Kim Dung
(cùng trí tưởng tượng hơi quá phong phú của tôi) thì Linh Sơn Tự mỗi
lúc càng thêm nhỏ lại, quá nhỏ nếu so với ... Thiếu Lâm Tự chót vót
trên đỉnh Tung Sơn, ở bên Tầu!
Xa Linh Sơn Tự, tôi cũng xa luôn qúi vị chư tăng
mà mình chưa có cơ hội để gần trong những tháng ngày thơ ấu. Đã
thế, sách sử còn khiến cho tôi dành rất ít tình cảm cho qúi vị quan
chức, tăng lữ và qúi tộc. Những giới người này thường (rất) dễ bị
hư hỏng trong mọi thời đại, và khắp các nơi, chứ chả riêng chi ở
Việt Nam.
Tôi không nhớ là mình đã từng xưng “con” với
một vị tu sĩ nào ráo trọi. Tôi chỉ có thể là con Phật, con Chúa,
và là con của bố mẹ mình thôi.
Rồi cũng như bao nhiêu người khác, với thời
gian (dường như) mỗi lúc tôi lại ... "nhích" lại gần
với tôn giáo hơn – một chút! Khi Lê Trí Tuệ chưa bị bắt đi biệt tích, có lần, tôi
hỏi em:
- Sao địa chỉ email của Tuệ lại dùng bốn chữ
Thanh Minh Thiền Viện (thanhminhthienvien) viết liền vậy?
- Dạ tại đây này là nơi đang giam lỏng Hoà
Thượng Quảng Độ, và em thì rất qúi mến ngài anh ạ.
Mới đây, tôi cũng thấy ảnh của một người bạn
trẻ khác – Nguyễn Vũ Bình – chụp chung với H.T. Quảng Độ. Nhìn
một vị cao tăng, sắp bước vào tuổi cửu tuần, hiền hoà và an nhiên
đứng cạnh mấy bạn thanh niên (không dưng) khiến tôi rưng rưng cảm động.
Bây giờ, nếu có cơ hội được diện kiến ông – chắc chắn – tôi cũng sẽ
cung kính chắp tay đảnh lễ và nhỏ nhẹ xưng ... “con” như tất cả
mọi người thôi!
Cách đây chưa lâu, tôi cũng có cái tâm cảm tôn
kính tương tự, khi tìm hiểu về Trại Cổng Trời và được biết thêm (đôi
điều) về cuộc đời của một vị tu sĩ khác – cha Gioan Lasan Nguyễn Văn
Vinh – qua lời của bạn đồng nghiệp Mặc Lâm và nhà thơ Tuân Nguyễn:
Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội giục giã vang lên chỉ
một ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1959. Không phải báo hiệu sự ra đời của Chúa
Giê Su, mà tiếng chuông kêu cứu với giáo dân vì Nhà Thờ Lớn đang bị một nhóm
người đến phá rối...
Câu chuyện vỡ lở ra sau đó cho thấy nhóm người đến
phá nhà thờ do chủ trương quá khích của một nhóm người và kết quả là linh mục
Trịnh Văn Căn, linh mục Nguyễn Văn Vinh cùng một số giáo dân bị quy tội phá rối
trị an. Linh mục Căn chịu 12 tháng tù treo, linh mục Nguyễn Văn Vinh chịu 18
tháng tù giam vì tội “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố
tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân”
Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong
chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM
Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đã âm thầm chịu chết
sau đó, trong trại giam Cổng Trời.
Hình
Linh Mục Nguyễn Văn Vinh. Photo: RFA
Ngài sống, và chết, ra sao, sau mười hai năm
(chứ không phải 18 tháng) bị giam ở trại Cổng Trời ?
Tuân Nguyễn kể lại như sau:
Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì
tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc
tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp
của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị.
Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm
giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về,
trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn
anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi...
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh
được, và cũng không ai muốn tranh. Ðó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết,
giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và
giao cho việc khâm liệm.
Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên
đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước
lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng
queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
…
Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm
nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền,
chốc chốc lại lên cơn co giật…Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần,
anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét
cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi
liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho
mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta
rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn
nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than
viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN. Viết xong,
anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than (Phùng
Quán, “Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội.” Ba Phút Sự Thực. NXB Văn Nghệ: Sài Gòn, 2007)
Cha Nguyễn Văn Vinh qua đời vào năm 1971.
Chữ NHẪN mà ngài viết bằng than (vào lòng bàn tay
của một nhà thơ) hồi gần nửa thế kỷ trước, đến nay mới được chứng
nghiệm qua "sự cố môi trường Formosa" cùng cách hành sử của
nhị vị linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục.
Hai ông hiện cũng đang bị "đấu tố"
về những tội danh tương tự như cha Vinh năm mươi năm trước (vô cớ tập hợp
quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây
chia rẽ trong nhân dân ...) nhưng thời thế và tình thế thì hoàn
toàn đã khác. Chữ NHẪN đã chín với thời gian.
Hình
L M Nguyễn Đình Thục (trái) và LM Đặng Hữu Nam. Ảnh: Internet
vào tù cho cho đến chết (luôn) như trước nữa.
Dù đã vận dụng mọi thủ thuật và thủ đoạn (bẩn thỉu) trong gần cả
năm qua nhưng chuyện tìm cách bắt giữ cha Nam và cha Thục, xem ra, mỗi
lúc một thêm vô vọng.
Với hai trăm ngàn (200,000.00) chữ ký của các nạn nhân trực tiếp, và gián tiếp
của thảm họa Formosa đã trao cho Liên Hiệp Châu Âu (vào hôm 16 tháng 5 năm
vừa qua) thì việc bắt giữ hay truy nã những nhà hoạt động xã hội
- Nguyễn Văn Hoá, Hoàng Đức Bình và Bạch Hồng Quyền - chỉ làm cho sự việc thêm lố bịch và bế tắc thêm thôi.
Thằng Thời Đại đã buộc Đảng phải "loạng
choạng lùi" rồi. Chỉ e là lùi không kịp thôi!
--------------------------------------
Trại
giam Cổng Trời có lẽ là một địa danh ít người Việt biết đến
trước khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc.
Đây là nơi giam giữ các trọng tội hình sự và các tù
nhân tôn giáo trong đợt xóa sổ năm 1959 và sau đó mở tung cánh cửa một lần nữa
vào năm 1976 để đón những tù nhân cải tạo từ miền Nam gửi ra. Trại giam Cổng Trời
dưới nhiều góc nhìn có thể nói không hề thua kém bất cứ trại giam nào trong tác
phẩm “Quần Đào Ngục Tù” của văn hào người Nga Alexandre Soljenitsyne. Ban Việt
Ngữ đài Á Châu Tự
Do trân trọng giới thiệu loạt bài này, do biên tập viên Mặc Lâm biên
soạn, với mục đích giở lại hồ sơ những cái chết oan khuất, những con người
bị chà đạp và những tài liệu, nhân chứng cho biết trại Cổng Trời đã tra tấn,
ngược đãi tù nhân như thế nào. Loạt bài này sẽ do chính nạn nhân của trại tù khắc
nghiệt này kể lại.
Quý vị có thể đọc hoặc nghe từng phần bằng
cách bấm vào hình của phần liên quan.
No comments:
Post a Comment