26/05/2017
Courage sometimes skips a generation.
Chương mở đầu Hồi Ký
Tống Văn Công có đoạn:
Ông nội tôi có ba người con, nhưng chỉ có cha tôi là
trai. Sau khi cha tôi bị bắt vì tội “làm cộng sản”, ông nội tôi sốt ruột chuyện
“nối giòng”. Có người mai mối má tôi là Nguyễn Thị Thâm ở làng Giồng Tre (xã An
Ngãi Trung) cho cha tôi...
Sau lễ ra mắt, hai họ quyết định các bước kế tiếp
theo tập tục. Cha tôi phải tới “ở rể” tại nhà ông bà ngoại tôi. Trong bữa cơm đầu
tiên, ông ngoại tôi cầm chai rượu lên hỏi: “Con có biết uống rượu không”? Cha
tôi đáp: “Dạ, có chút đỉnh”. Ông ngoại tôi rót đầy ly nhỏ, đưa cho cha tôi. Cha
tôi cầm lấy, cám ơn và uống cạn. Ông ngoại tôi cười lớn nói bỗ bã: “Tao thích
mày!”
Tui thì thích hết hai ông: ông ngoại và ông cha của
nhà báo Tống Văn Công bởi cả hai đều vui tính, hảo rượu, và (chắc) đều là những
trang hảo hớn. Bởi tui cũng sinh trưởng ở trong Nam nên nói như vậy (nghe) cũng
kỳ kỳ, và e có điều tiếng eo sèo là mình hơi nhiều máu địa phương hay phân biệt
vùng/miền.
Để tránh dị nghị, tôi xin mạn phép mượn đôi lời của
một nhân vật khác – từ một vùng đất khác – ghi nhận về những nét “dễ thương” của
nơi mà mình chôn rau cắt rún:
Về tính cách ham vui của người dân Nam Bộ, tôi có
nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ở cùng phố với tôi, có anh bạn một hôm đến rủ tôi đến
nhà anh ăn mừng sinh nhật Bác Hồ ngày 19-5. Đương nhiên là tôi đi. Đúng một
tháng sau, anh lại đến rủ tôi đi liên hoan. Tôi hỏi, dịp gì thế? Anh ta bảo,
hôm nay “đầy tháng” Bác Hồ!
Chưa hết, anh rủ tôi đến nhà ăn giỗ bà già.
Đúng một tháng sau anh lại đến rủ tôi, nói: hôm nay giỗ bà già tôi! Nghe vậy
tôi ngạc nhiên quá, vì vừa ăn giỗ tháng trước. Anh hiểu sự ngạc nhiên này nên
giải thích ngay: năm nay nhuận hai tháng tám phải giỗ hai lần!
Vẫn chưa hết. Ngày Phật Đản, anh rủ tôi rồi đến ngày
Noel mừng Thiên Chúa Giáng Sinh anh cũng đến mời tôi đi ăn mừng. Tôi thắc mắc
vì anh theo đạo Phật cơ mà, anh cười, nói tôi đa tôn giáo! Thế nên hèn chi, ca
dao Nam Bộ mới có câu: “Ra đường thấy vịt cũng lùa. Thấy duyên cũng kết,
thấy chùa cũng tu!” (Lê Phú Khải. Lời Ai
Điếu, Westminster, CA: Người Việt, 2016).
Hình bìa hồi ký “Lời ai điếu” của Lê
Phú Khải
Theo T.S Nguyễn
Văn Tuấn, tác giả cuốn hồi ký thượng dẫn sinh năm 1942 tại Hà Nội, học văn
khoa tại trường ĐH Sư Phạm Hà Nội 1967, làm việc cho đài Tiếng Nói Việt Nam và
sau này bị/được ‘lưu đày’ vào Nam. Ông đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn viết cho truyền
thông … lề trái.”
Dù ở hoàn cảnh “lưu đầy” nhưng Lê Phú Khải yêu qúi
và rành rẽ Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ít ai sánh kịp. Ngoài gần
chục tác phẩm viết về miền đất này, ông còn tìm ra được hằng trăm từ kép mà
người dân hai miền Nam/Bắc “chia nhau” (trước/sau hay sau/trước) một cách vô
cùng độc đáo:
“... ô dù, ốm đau, buồn rầu, bơi lội, bóc lột, cố gắng, co kéo, chọc ghẹo,
chán ngán, chặt đốn, cưng chiều, chén bát, chờ đợi, chửi rủa, chậm trễ, cần thiết,
cạn kiệt, chia xớt, đưa rước, dạy bảo, dòmn ngó, dọn dẹp, dụ dỗ, đùa giỡn, đùi
vế, đau ốm, đĩ điếm, khờ dại, điên khùng, dư thừa, giỡn chơi, đui mù, dòm ngó,
dọa nạt, đe dọa, hư hỏng, hao tốn, hăm dọa, hối thúc, hù dọa, hung dữ, ham
thích, hoảng sợ, hèn nhát ... Ví dụ như đui mù thì người Nam nói đui, người Bắc
nói mù.”
Thiệt là bất ngờ và thú vị!
Hèn chi mà gíáo sư Nguyễn
Văn Tuấn không tiếc lời ca ngợi: “Đây
là một cuốn sách cần phải có trong tủ sách gia đình. Một cuốn sách bổ sung tuyệt
vời cho các tác phẩm của Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Xuân Vũ, Dương Thu Hương, Trần
Đĩnh, Huy Đức ...”
Tôi rất tán thành với nhận định (“một cuốn sách tuyệt
vời”) và chỉ hơi lấy làm tiếc là đã không hoàn toàn chia sẻ được với nhà báo Lê
Phú Khải về vài đoạn văn (ngăn ngắn) trong hồi ký của ông. Xin đơn cử một thí dụ:
“Đó là vào năm 1992, một đoàn nhà báo, gồm toàn những nhà báo có ‘máu mặt’,
tổ chức lên Đà Lạt nhằm bênh vực chị Đặng Việt Nga, kiến trúc sư và anh Phương
cũng kiến trúc sư, hai chủ nhân của ‘Ngôi nhà trăm mái’ đang bị địa phương bắt
tháo dỡ vì nhiều lý do không chính đáng.
Đường xa, hết chuyện bàn, tôi nêu câu hỏi: Nếu bây giờ phải chọn hai
gương mặt tiêu biểu cho Việt Nam thế kỷ qua thì các vị chọn ai? Mọi người đều
chọn nhân vật số một là Hồ Chí Minh. Vậy còn người thứ hai? Cả xe im lặng. Có vị
nói: Võ Nguyên Giáp! Tôi phản đối và đưa ra nhân vật thứ hai là Dương Thu
Hương! Cả xe nhao nhao phản đối. Có người hỏi: Dương Thu Hương là cái quái gì
mà ông lại cho là nhân vật thứ hai sau Hồ chí minh? Tôi trả lời: chẳng là cái
quái gì mà tự cho mình có quyền đứng ngang hàng và dám vỗ vai nhắc nhở các vị
đang cai trị dân chúng, thì đó là dân chủ, là xã hội công dân chứ còn gì nữa! Độc
lập và dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất
trong thế kỷ qua. Độc lập thì Hồ Chí Minh là hình tượng, còn dân chủ thì đến Đại
Tướng cũng không dám đối thoại với tổng bí thư Lê Duẩn, Dương Thu Hương là thảo
dân mà lại tự cho mình quyền ăn nói ngang hàng với các vị đang đứng trên đầu
dân, thì đó là hình tượng của dân chủ. Sau hình tượng của dân tộc phải là hình
tượng của dân chủ… Chẳng thấy ai trên xe nói gì nữa!”
Ảnh: photphet
Tôi không có mặt trong chuyến xe lên Đà Lạt vào năm
1992, và cũng không có khả năng tranh luận nên xin phép được mượn lời của nhà
bình luận thời cuộc Vũ Quang Thuận và bác sĩ Phạm Hồng Sơn để góp ý thêm về ông
Hồ Chí Minh – nhân vật mà theo nhà báo Lê Phú Khải là "một hình tượng độc
lập tiêu biểu của nước Việt Nam" trong thế kỷ vừa qua.
Thằng đó nó khốn nạn lắm. Nó lừa dân mình. Dân mình
ngu si không biết lại còn tung hô, dựng nó lên thành thánh.
Theo tôi, hiện nay nếu muốn đất nước có tiến bộ, có
dân chủ thực sự hay thậm chí là chỉ muốn chính quyền phải cương quyết hơn với sự
đe dọa, xâm lấn từ Trung Quốc thì chúng ta rất không nên lấy “cụ Hồ” ra làm tấm
gương, trừ khi chúng ta không có đủ thông tin hoặc chỉ muốn có tiến bộ giả dối,
nửa vời và chỉ muốn chính quyền vẫn lệ thuộc Trung Quốc. Chỉ cần xem lại một
chút lịch sử chúng ta sẽ thấy điều này rất rõ.
Lãnh tụ nào và chính thể nào đã đưa vòng lệ thuộc, cống
triều phương Bắc trở lại Việt Nam gần 80 năm sau khi sự phụ thuộc đó đã bị hủy
bỏ hoàn toàn kể từ Hiệp ước Patenôtre 1884? Còn lãnh tụ nào và chính quyền nào
nếu không phải là chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã bắc những cây cầu “răng môi”, “núi liền núi sông
liền sông” cho sự lệ thuộc, cống triều (kiểu mới) phương Bắc trở lại
Việt Nam từ năm 1950?
...
Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng
cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận
lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54
năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí
Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tại miền Bắc Việt Nam), kiêm chủ
tịch Đảng Lao động Việt Nam và là một chí hữu, một “người thầy vĩ đại” đương thời
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng...
Cái đau xót và đau buồn chính là việc những người bị
trị, những người đang mất tự do, bị áp bức, những người không muốn đi theo cái
ác lại vẫn quì lạy, sùng kính một con người đã đưa họ từ những xiềng xích thô kệch,
rỉ sét sang những gông xiềng êm ả, tinh vi, bền chắc hơn, đã khai sinh ra một
chế độ suy đồi mà họ đang ta thán, đã là một ông trùm của các thủ đoạn dân chủ
giả hiệu vẫn được duy trì cho tới hôm nay, đã là một chuyên gia về các kỹ thuật
mị dân lão luyện tới mức khiến cho cả một dân tộc đa phần vẫn cứ an tâm, ngáo
ngác, trông đợi tự do trong gông cùm và thờ kính chính kẻ đã quàng vào họ bộ
gông cùm mới.
Tôi không hề có dụng ý mượn lời của Vũ Quang Thuận
và Phạm Hồng Sơn để chỉ trích nhà báo Lê Phú Khải. Tôi chào đời trước hai nhân
vật này, và sinh sau tác giả của cuốn hồi ký Lời Ai Điếu. Giữa ba
ông tôi chỉ (tình cờ) là một độc giả thuộc thế hệ bắc cầu nên thấy cần ghi lại
quan điểm của cả ba để rộng đường dư luận!
Courage sometimes skips a generation. Lòng dũng cảm đôi khi bỏ qua cả một thế hệ.
No comments:
Post a Comment