Thứ ba, 9 tháng 5, 2017
GS
Tường Vũ (Đại học Oregon, xem lý lịch ở đây) vừa xuất
bản cuốn "Vietnam's
Communist Revolution - The Power and Limits of Ideology" (tạm dịch "Cuộc
Cách mạng Cộng sản ở Việt Nam - Sức mạnh và Giới hạn của Ý thức
hệ"), một công trình nghiên cứu công phu (ông đã nói sơ về cuốn
này trong bài viết
cho BBC).
Đây là một cuốn sách mà mọi người quan tâm đến lịch
sử Việt Nam cận đại đều phải đọc.
Hy vọng rằng nó sẽ sớm được dịch ra tiếng Việt
(không cắt xén!) để các học giả trong nước đánh giá. Là một độc giả
thường xuyên của Viet-Studies, GS Vũ có nhã ý chia sẻ với các bạn bốn
chương trong quyển này: Lời Mở Đầu, Chương 1, Chương
9 và Lời Kết.
Xin cám ơn GS Tường Vũ và trân trọng giới thiệu với
các bạn.
-------------------------
TS. Vũ Tường
Gửi
cho BBC từ Đại học Oregon, Hoa Kỳ
7 tháng 2 2017
Cuộc
cách mạng cộng sản ở Việt Nam bắt đầu nhen nhúm từ những năm 1920 nhưng bị thực
dân Pháp đàn áp nặng nề trong thập niên 1930.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp mới của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa năm 1960. GETTY IMAGES
Cướp chính quyền năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) đưa Chiến tranh Lạnh vào Việt Nam vào năm 1950, đánh bại quân viễn
chinh Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 và biến miền Bắc thành tiền đồn phe Xã hội
chủ nghĩa ở Đông Nam Á.
Nhưng sau khi giành được chiến thắng năm 1975 và thiết
lập chính quyền cộng sản trên toàn quốc, ĐCSVN vấp phải những thất bại nặng nề
về đối ngoại và đối nội.
Cuộc cách mạng đã lẳng lặng kết thúc vào năm 1991 với
sự qua đời trước đó của nhiều nhà lãnh đạo trụ cột của thế hệ thứ nhất như Lê
Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, và Phạm Hùng, với việc từ bỏ kinh tế tập thể
trong nước, và với sự sụp đổ hoàn toàn của khối Xô viết.
Cuốn sách của tôi khai thác tư liệu từ bộ sách Văn
kiện Đảng toàn tập, từ các tài liệu lưu trữ, cũng như các hồi ký, nhật ký, và
báo chí xuất bản ở Việt nam từ thập niên 1920 đến 2010.
Phần lớn các tư liệu sử dụng trong sách đều chưa từng
được khai thác ở nước ngoài.
Đối tượng của sách là thế giới quan của các nhà lãnh
đạo cộng sản Việt Nam thể hiện qua đường lối ngoại giao của họ.
Qua các tài liệu họ để lại hay của người đương thời
viết về họ, tôi muốn biết họ nghĩ gì về thế giới, về tương lai của loài người
và của Việt Nam, và ý thức hệ Marx-Lenin có ảnh hưởng gì đối với đường lối ngoại
giao của họ.
Luận đề chủ yếu trong sách là khẳng định bản chất cộng
sản của cách mạng Việt Nam do ĐCSVN lãnh đạo trong suốt thời gian từ 1920 đến
1991.
Cộng sản đây là cộng sản kiểu Đệ tam Quốc tế do
Lenin sáng lập và sau đó do Stalin lãnh đạo.
Về cơ bản, thế giới quan cộng sản dựa trên giả định
rằng đấu tranh giai cấp trên bình diện thế giới giữa hai phe tư bản và cộng sản
là cuộc chiến một mất một còn.
Phe cộng sản sẽ thắng vì đó là trào lưu tất yếu của
lịch sử nhân loại. Thắng lợi của phe cộng sản sẽ mang đến một xã hội loài người
sung túc về vật chất, không còn người bóc lột người, và cũng không còn chiến
tranh.
Phải nói rằng đây là một viễn cảnh đẹp như mơ, và có
lúc hàng triệu người Việt đã tin vào nó, nhưng tiếc rằng nó hoàn toàn không tưởng.
Trong phong trào cộng sản Việt Nam, niềm tin này là có thực, mặc dù cách thể hiện
niềm tin của mỗi người khác nhau.
Trong ĐCSVN, có lãnh tụ say mê viết sách lý luận, có
người chỉ quan tâm đến tổ chức và tuyên truyền. Nhưng không phải nhóm sau ít lý
tưởng hơn nhóm trước.
Giống như tất cả chúng ta, suy nghĩ, nhận định, và
thế giới quan của các lãnh tụ ĐCSVN không bất biến mà thay đổi với thời gian.
Cuốn sách của tôi chỉ ra những thay đổi lớn trong thế giới quan của người sáng
lập ĐCSVN, Nguyễn Ái Quốc, sau khi ông trở thành tín đồ của Lenin.
Cùng là tín đồ của Lenin không có nghĩa là các lãnh
tụ ĐCSVN luôn luôn đồng ý với nhau. Tư liệu lịch sử cho thấy trong quá trình
lãnh đạo cách mạng họ tranh luận rất thường xuyên và đôi khi gay gắt về những
biến chuyển trên thế giới và ở Việt Nam, hay về đối sách cần thiết của Đảng đối
với những biến chuyển đó.
Nhưng niềm tin của họ vào thế giới quan cộng sản về
cơ bản không suy suyển. Nghiên cứu của tôi cho thấy quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc
với Trần Phú và Hà Huy Tập không phải căng thẳng như quan niệm của các sử gia
như Huỳnh Kim Khánh và Sophie Quinn-Judge.
Nguyễn Ái Quốc trung thành với Quốc tế Cộng sản và với
Stalin không kém các đồng chí của ông.
Nhìn lại lịch sử 70 năm, có thể thấy ý thức hệ đóng
ba vai trò chính đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, về mặt nhận thức, ý thức hệ trang bị cho
các nhà lãnh đạo cách mạng mục tiêu tranh đấu (không chỉ độc lập dân tộc mà còn
giải phóng giai cấp) và một phương pháp phân tích chính trị thế giới có tính hệ
thống cao.
Với các khái niệm Marx-Lenin, họ có thể phân tích và
vạch ra đối sách với những biến cố ở cách xa Việt Nam hàng ngàn dặm, ví dụ như
cuộc đảo chính ở Iraq năm 1958 hay là cuộc tấn công của Mỹ vào Panama cuối năm
1989.
Nhưng ý thức hệ không phải lúc nào cũng chỉ họ đi
đúng đường, và thường xuyên dắt họ đi lầm đường - điều này đã thể hiện rõ trong
đường lối ngoại giao của Việt Nam từ sau năm 1975 theo phân tích của các nhà
ngoại giao cao cấp của Việt Nam như cựu Đại sứ Nguyễn Trung hay Thứ trưởng Trần
Quang Cơ.
Vai trò thứ hai của ý thức hệ là về mặt tổ chức. Cụ
thể là, nó kết nối các nhà cách mạng Việt Nam với nhau, và kết nối cách mạng Việt
Nam với những cá nhân, tổ chức, và nhà nước trên toàn thế giới có cùng niềm tin
vào Chủ nghĩa cộng sản.
Trong thập niên 1920 và 1930, Đệ Tam Quốc tế huấn
luyện cán bộ, cung cấp tài chính và nơi ẩn náu khi bị đàn áp. Hai lần trong thập
niên 1930, Quốc tế Cộng sản đã giúp vực dậy ĐCSVN sau khi hầu hết các lãnh tụ của
nó bị giết hại hay cầm tù bởi thực dân Pháp.
Nhưng ý thức hệ không giúp cách mạng Việt Nam thành
công hay sống mãi. Nếu Liên Xô đã thua Phát xít Đức, nếu Mao đã thua Tưởng
trong nội chiến Trung Quốc, khó biết phong trào cộng sản Việt Nam có tồn tại được
không.
Sự sụp đổ của khối Xô Viết năm 1991 cũng là lúc cách
mạng Việt Nam buộc phải chấm dứt, không thể tiếp tục được nữa.
Vai trò thứ ba của ý thức hệ là công cụ xây dựng nhà
nước vào giai đoạn sau khi nắm quyền. Ý thức hệ cung cấp cho ĐCSVN một mô hình
tổ chức và khái niệm xây dựng nhà nước hiện đại theo mô hình Stalin-Mao (chuyên
chính vô sản, đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, kinh tế tập thể ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng, hộ khẩu, trại cải tạo, v.v…). Nhà nước này đã tỏ
ra khá thọ.
Nhưng những thành tựu trong xây dựng nhà nước toàn
trị đã gây ra những thiệt hại lớn và lâu dài về kinh tế, khoa học, văn hóa, và
giáo dục mà bây giờ Việt Nam vẫn đang trả giá.
Sau mỗi đợt nhà nước đánh địa chủ và tư sản (ví dụ,
1953-1956, 1958-1960, 1978-1980) là một đợt đói ăn và kinh tế suy trầm. Văn
hóa, khoa học, và giáo dục bị ý thức hệ trói buộc và tụt hậu hàng thập kỷ so với
nhân loại.
Khẩu hiệu quen thuộc một thời ở Việt Nam là "Chủ
nghĩa Marx- Lenin bách chiến bách thắng muôn năm!" Thực ra, ý thức hệ cộng
sản không giúp cách mạng thành công như trong khẩu hiệu - sự thành công trong
giai đoạn nào đó là do rất nhiều yếu tố khác.
Đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, ĐCSVN vẫn tuyên bố
trung thành với Chủ nghĩa Xã hội. Cho dù ngày nay mấy chữ này không còn thuyết
phục người nghe, không phải vì thế mà chúng ta phủ nhận vai trò của ý thức hệ
trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20.
Hơn nữa, mặc dù cuộc cách mạng cộng sản đã chấm dứt
từ lâu, di sản của nó để lại còn rất nặng nề trong đường lối ngoại giao của Việt
Nam hôm nay.
*
Tiến sĩ Vũ Tường đang là Giáo sư Khoa Chính trị học,
Đại học Oregon, Hoa Kỳ. Bài viết trên là một phần nghiên cứu trong cuốn sách mới
của ông, Vietnam's Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology (Cách
mạng cộng sản ở Việt Nam: Quyền lực và hạn chế của ý thức hệ), vừa do Đại học
Cambridge xuất bản.
No comments:
Post a Comment