Tác
giả: Phạm Phú Khải
Posted on 17/04/2017 by The Observer
Năm 1943 nhà báo Mỹ và tác giả Walter Lippmann viết:
Nếu không có nguyên tắc bao trùm rằng quốc gia phải
duy trì các mục tiêu và quyền lực của mình trong trạng thái cân bằng, giữ mục
đích trong phạm vi phương tiện, và phương tiện bằng với mục đích, giữ các cam kết
phù hợp với các nguồn lực và các nguồn lực phù hợp với cam kết, thì sẽ bất khả
để nghĩ về các vấn đề ngoại giao.
Quan điểm của Lippmann đã ảnh hưởng sâu rộng lên nền
ngoại giao của Mỹ gần một thế kỷ qua.
Trong cuộc tranh luận hầu góp ý với Bộ Ngoại Giao và
Thương Mại Úc (DFAT) để góp phần hình thành Sách Trắng Chính Sách Ngoại Giao
(FPWP), tiến sĩ Michael Fullilove, giám đốc điều hành viện nghiên cứu chính
sách Lowy Institute, cho rằng nước Úc không phải lúc nào cũng đạt được vị thế
cân bằng về các vấn đề ngoại giao. Ông phê bình rằng có những lúc chính sách
ngoại giao Úc quá nhiều tham vọng nhưng thiếu nhất quán; có nhiều ý tưởng lớn
nhưng không có khả năng thi hành; nhanh thúc dục các nước khác làm những điều
mà Úc chưa sẵn sàng làm, v.v… Tóm lại là các cam kết của Úc vượt quá nguồn lực
của mình.
Như đã đề cập trong bài trước, kể từ tháng Tám năm ngoái sau khi Trump chính thức
đại diện Đảng Cộng Hoà làm ứng cử viên tổng thống, nước Úc thấu hiểu sự chuyển
động trong tư tưởng của người Mỹ, đặc biệt trong địa hạt ngoại giao và thương mại,
nên đã nắm bắt cơ hội này huy động trí tuệ toàn dân hầu tìm ra giải pháp tốt nhất
cho mình.
Tại Mỹ, cũng vào thời điểm này, 50 viên chức an ninh
quốc gia kỳ cựu của Đảng Cộng Hòa, trong đó có nhiều chuyên gia nổi tiếng, đã
thảo một lá thư chung phản đối cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của Trump, vì nếu thắng
cử, Trump “sẽ làm nguy hại đến nền an ninh và thịnh vượng của quốc gia chúng
ta”. Lá thư đó nhanh chóng chìm sâu không vết tích. Phải chăng người Mỹ đã thật
sự mất niềm tin vào giới chuyên gia?!
Về sự khủng hoảng niềm tin của người Mỹ đối với giới
chuyên gia trong lĩnh vực ngoại giao, Daniel Bessner và Stephen Wertheim thuộc
trường Đại học Washington trình bày hai nguyên nhân chính trong bài “Dân chủ
hóa nền ngoại giao Mỹ” trên tạp chí Foreign Affairs. Thứ nhất, vì
nhiều chuyên gia trong số này ủng hộ chiến tranh Iraq, trong đó hàng chục ngàn
dân Mỹ tử vong hoặc thương tích, và hàng ngàn tỷ đô la bị tiêu tốn để theo đuổi
những mục tiêu hiếu chiến và không thể thành công. Thứ hai, từ bấy lâu nay, giới
chuyên gia về chính sách ngoại giao đã quá cô lập đối với dân chúng Mỹ. Tệ hơn,
giới chuyên gia thường bảo dân chúng cần phải làm gì thay vì trình bày nhiều giải
pháp để dân chúng có thể lựa chọn. Làm như thế họ đã phủ nhận vai trò của người
dân trong quyết định cuối cùng của nền dân chủ. Cho nên chẳng gì ngạc nhiên khi
dân chúng không thèm lắng nghe và từ chối nhìn nhận giới chuyên gia một cách
nghiêm túc.
Khi nghiên cứu lịch sử Mỹ, Bessner và Wertheim đã
tìm ra được những nguyên nhân và đề nghị các giải pháp thích đáng, hầu mang
chuyên gia và dân chúng xích lại gần nhau, như trình bày sau đây.
Một
giới tinh hoa dân chủ
Vào đầu thế kỷ 20, các chuyên gia Mỹ đã hình thành
những tổ chức chuyên môn nhằm cải thiện chính sách ngoại giao của Mỹ. Ngay từ đầu,
vào thập niên 1920, đã có hai khuynh hướng đối trọng nhau: một bên thuộc tinh
hoa và một bên thuộc dân chủ. Đại diện của bên tinh hoa là nhà báo Water
Lippmann, cho rằng người dân bình thường trong thời hiện đại không đủ tri thức
để đi đến các quyết định chính trị sáng suốt. Trong tác phẩm nổi tiếng của ông
năm 1922, “Công Luận” (Public Opinions), Lippmann biện luận rằng các quyết định
cần phải được hướng dẫn bởi giới tinh hoa, những tổ chức chuyên gia độc lập
tách biệt với quần chúng. Trong khi đó, bên dân chủ, đại diện là triết gia John
Dewey, trong tác phẩm “Công Chúng và Các Vấn Đề Của Họ” (The Public and its
Problems) xuất bản năm 1927, biện luận rằng nền dân chủ mà không có dân thì
hoàn toàn không dân chủ. Mặc dầu ông công nhận tầm quan trọng của giới chuyên
gia, Dewey cho rằng vai trò của họ là giúp dân, không phải thay thế dân; qua sự
hướng dẫn chuyên môn và các cuộc thảo luận cộng đồng, công dân sẽ trở nên giác
ngộ và được trao quyền hành động về mặt chính trị.
Khi Thế chiến I bùng nổ, ba viện nghiên cứu chính
sách ảnh hưởng lớn nhất được hình thành là Hội Chính Sách Đối Ngoại (Foreign
Policy Association, FPA), Viện Quan Hệ Thái Bình Dương (Institute of Pacific
Relations, IPR), và Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại (the Council on Foreign
Relations, CFR).
Vào năm 1943, FPA đặt mục tiêu đưa thông tin và thảo
luận đến quảng đại quần chúng. IPR đi xa hơn, cấm các viên chức chính quyền
tham dự các cuộc họp của mình mãi cho đến Thế chiến II. Frank Atherton, một
thương gia từ Hawaii và cũng là một trong những sáng lập viên, cho rằng thúc đẩy
“quan hệ giữa con người với nhau và giữa các quốc gia với nhau” là con đường dẫn
đến hòa bình. Ngay cả CFR, tổ chức nhằm ảnh hưởng lên các viên chức ngoại giao
của chính phủ, cũng đã dành các nguồn lực đáng kể để giáo dục dân chúng, điển
hình là qua việc xuất bản tạp chí Foreign Affairs.
Không hề tự mãn giam mình ở các thành phố Boston,
New York hay Washington, các chuyên gia ngoại giao Mỹ đã hình thành các chi
nhánh địa phương ở khắp nước Mỹ để tổ chức các cuộc thảo luận mang tính địa
chính trị hệ trọng vào thời điểm đó. Vào thời điểm Thế chiến II, FPA ước đoán
có khoảng 726.138 người đã tham dự các cuộc họp công cộng trên 19 chi nhánh hoạt
động của họ. Các lần họp thường có hai diễn giả tranh luận với nhau. Các chi
nhánh của IPR nằm khắp ven bờ biển phía Đông nối kết người dân Mỹ với các
chuyên gia ở bờ Tây. CFR cũng hình thành các hội đồng vùng tại Des Moines,
Houston và Louisville, cung cấp cho trụ sở trung ương tại New York những tai mắt
cảm nhận tâm trạng của đất nước, một nguồn thông tin quan trọng cho giới nghiên
cứu và phân tích chính sách đối ngoại.
Bessner và Wertheim cho rằng mặc dầu hai khuynh hướng
dân chủ và tinh hoa luôn tranh giành ảnh hưởng, chỉ đến Chiến tranh Lạnh thì giới
tinh hoa theo chủ trương của Lippmann mới thật sự thắng thế. Điều đáng nói là
các chuyên gia làm việc cho các tổ chức nói trên giữa năm 1920 và 1940 thường
tiếp cận với người dân với sự kính trọng và sẵn sàng giúp họ tự suy nghĩ lấy.
Ngoài ra, năm 1944, Bộ Ngoại giao Mỹ hình thành Phòng Liên lạc Công cộng
(Division of Public Liaison) với mục đích tạo trao đổi hai chiều giữa nhân viên
chính phủ và người dân, giúp họ cân nhắc nhiều sự chọn lựa mâu thuẫn nhau.
Trong thời điểm hiện tại giới chuyên gia thường có
xu hướng áp đặt các quan điểm hay các chương trình nghị sự nào đó lên công
chúng. Chẳng hạn bản tường trình của Viện Brookings vào năm 2017 với tựa đề
“Xây dựng ‘tình huống có sức mạnh’: Một Chiến lược An ninh Quốc gia cho Hoa Kỳ”,
gồm 10 chuyên gia thuộc lưỡng đảng, cho vị Tổng Thống thứ 45 của Mỹ.
Trong khi đó, vào năm 1942 Viện Brookings có quan điểm
khác. Bản tường trình “Kế hoạch Hòa bình và Những Chọn lựa của Mỹ” (Peace Plans
and American Choices) năm đó trình bày cả tá lập trường đối ngoại khác nhau với
những ưu và khuyết điểm của mỗi lựa chọn, từ sự nắm vững thế giới đơn phương đến
hợp tác đa phương để liên minh với Khối Thịnh Vượng Anh. Ông Harold Moulton, Chủ
tịch viện Brookings thời đó, khẳng định rằng “Mỗi chúng ta có trách nhiệm,
trong tư cách là công dân, để kết luận đề xuất nào trong này, đơn lẻ hay kết hợp
nhau, mà mình tin là tốt nhất”. Ngay cả khi Mỹ đã quyết định tham chiến và đối
diện với một tương lai bất định, giới chuyên gia vẫn một mực đối xử với người
dân Mỹ như là trọng tài của các chính sách đối ngoại của quốc gia mình. Ngoài
ra, các chuyên gia trong thời gian này sở hữu những hình thức kiến thức mà công
dân có thể hiểu được, làm cho sự tham gia của công chúng trở nên khả thi. Chưa
biệt lập trong tháp ngà của họ, hoặc say mê các công thức toán học, họ cung cấp
những hiểu biết sâu sắc từ lịch sử, địa lý, và nhân học vốn có thể hiểu được đối
với độc giả nói chung. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, những điều kiện này dần
dần biến mất.
Giới
tinh hoa trở thành qúy tộc
Khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu leo thang, với hiểm
nguy của chiến tranh hạt nhân từ hai siêu cường Mỹ và Liên Xô, chuyên gia từ
các cơ sở kỹ nghệ quân sự đang nổi lên đã xác định rằng các hiểm hoạ chính trị
quốc tế đã quá khó khăn để có thể trao lại vào tay thường dân. Thêm vào đó, sự
trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít và sau đó là chủ nghĩa chuyên chế toàn trị
Xô-viết cho thấy quần chúng dễ bị thao túng và đưa đến hành xử hung hăng. Ông
Hans Speier, người chỉ đạo bộ phận nghiên cứu khoa học xã hội cho viện nghiên cứu
về quân sự RAND Corporation mới hình thành lúc đó, đã bác bỏ sự lạc quan của xu
hướng dân chủ theo Dewey vì cho là đạo đức ngây thơ. Ông viết tường trình năm
1954 cho cấp trên của mình rằng các quyết định chính trị phải tùy thuộc vào “những
người mang trách nhiệm chính trị”. Các chuyên gia phải tìm cách để “nhìn thẳng
vào tương lai không chắc chắn và bảo vệ tốt nhất có thể cho những người khác
không có trách nhiệm như vậy”. Kể từ đó công chúng ngày càng trở thành vật thể,
hơn là chủ thể, của chính sách đối ngoại Mỹ.
Tín nhiệm giới tinh hoa được nhanh chóng định chế
hóa. Năm 1947 Quốc Hội Mỹ hình thành hai cơ quan quyền lực ít chịu sự giám sát
của công chúng: Hội đồng An ninh Quốc gia (National Security Council) và Cơ
quan Tình báo Trung ương CIA (Central Intelligence Agency). Các chuyên gia hoặc
tham gia vào các tổ chức đang phát triển như thế hoặc hình thành các viện khác
để phục vụ nó. Những ai tham gia vào các viện nghiên cứu về quân sự như RAND
hay viện Phân tích Quốc phòng (Institute for Defense Analyses) thì thăng hoa,
trong khi những ai theo xu hướng dân chủ thì suy yếu. IPR trở thành nạn nhân của
chủ nghĩa McCarthy vào thập niên 1950. FPA thì mất ảnh hưởng và tài trợ vào thập
niên 1960. Một phần của vấn đề nằm ở chỗ các viên chức cao cấp mất hứng thú gặp
gỡ công dân trên mọi miền đất nước. Trong thời Tổng thống Eisenhower, Bộ Ngoại
Giao bỏ cả sự giả bộ trông mong ý kiến của công chúng trước đây mà chủ yếu sử dụng
truyền thông đại chúng để truyền đạt chính sách của mình. Cộng đồng giới chuyên
gia về chính sách đối ngoại ngày càng tách biệt, chủ yếu quan tâm đến tầm ảnh
hưởng của mình tại Washington hơn là giúp xây dựng tầng lớp công chúng tham gia
rộng rãi.
Hệ thống này hoạt động tốt trong thời Chiến tranh Lạnh,
và giới chuyên gia được công chúng tin cậy cao, được giao nhiệm vụ hoạch định
và thi hành chính sách thay mình. Ngay cả trong thời chiến tranh Việt Nam khi bị
công chúng chỉ trích vì các chính sách thất bại của mình, giới chuyên gia vẫn lấy
lại được uy tín xưa sau một số cải tổ. Các ý tưởng dân chủ theo Dewey vẫn chưa
thắng thế vào thập niên 1980.
Sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, giới chuyên gia
và công chúng không còn chung lý luận về chính sách đối ngoại. Một hố ngăn cách
sâu đã xuất hiện giữa các các mối đe dọa an ninh tương đối nhỏ trong khi các
cam kết quân sự và chính trị của Mỹ mang tầm khổng lồ ở ngoài nước. Sự mất cân
bằng này đã tạo ra các áp lực liên tục khiến những người như Tổng thống George
W Bush hay bây giờ là Donald Trump phải hoặc thổi phồng các mối đe dọa, hoặc phải
cắt giảm vai trò của Mỹ trên thế giới. Khi chưa có sự thay thế hệ thống cũ
trong thời Chiến tranh Lạnh này, dân chúng Mỹ cảm thấy phải bắt đầu chống lại
uy quyền của giới chuyên gia.
Mang
công chúng trở lại
Ngày nay các viện nghiên cứu chính sách cố gắng phối
hợp nỗ lực để tiếp cận dân chúng. Họ xuất bản các tường trình, tiến trình và
bài phát biểu trực tuyến và kết nối các nhà phân tích của họ với sinh viên và học
giả trong các trường đại học. Mặc dầu có nhiều tiến triển tích cực như thế,
thành trì chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn mang cấu trúc phi dân chủ. Các chuyên
gia tán dương giá trị của ngoại giao quốc tế mặt đối mặt nhưng hầu như không tiếp
cận với công dân Mỹ ngoài vùng Đông Bắc, thay vào đó chỉ dựa vào truyền thông
điện tử. Họ tự giới hạn vai trò của họ, trước hết và trên hết, là đưa ra những
khuyến nghị tốt nhất cho các nhà hoạch định chính sách. Nếu công dân bình thường
lắng nghe thì càng tốt, nhưng tiếp cận họ là việc ngẫu nhiên chứ không dự định.
Trên thực tế, công chúng được yêu cầu nhận và đồng ý, không có quyền lựa chọn
và chỉ đạo.
Là một ứng viên Tổng thống trong kỳ bầu cử vừa qua,
Trump nhận diện thực tế này trong bài phát biểu đầu tiên về chính sách ngoại
giao, vào tháng Tư năm 2016. Ông tuyên bố: “Đã đến lúc mời những tiếng nói mới
và tầm nhìn mới trở lại”. Trump hầu như không bác bỏ việc sử dụng giới chuyên
môn. Ngược lại, ông cam kết sẽ tìm ra “các chuyên gia có tài năng với những
cách tiếp cận và ý tưởng thực tiễn, chứ không phải bọc xung quanh tôi với những
người có lý lịch nghề nghiệp tốt nhưng rất ít thứ để khoe ngoại trừ trách nhiệm
về một chính sách thất bại kéo dài và tiếp tục thua thiệt trong chiến tranh”.
Trump kêu gọi phải có chuyên gia mới và tốt hơn và đòi hỏi trách nhiệm đối với
những người đã thất bại.
Nhưng khi trở thành tổng thống, Trump lại chọn những
nhân vật như Stephen Bannon, chiến lược gia chính của Nhà Trắng, giữ vai trò trụ
cột trong Hội đồng An ninh Quốc gia (Các tổng thống Mỹ trước đây, thuộc Dân Chủ
hay Cộng Hòa, đều hiểu rất rõ sự nguy hiểm trong việc pha trộn chính trị và an
ninh quốc phòng, chưa bàn đến vấn đề năng lực ở đây. Tuy nhiên mới đây Trump đã
rút Bannon ra khỏi cơ quan này). Để ngăn ngừa các chuyên gia kiểu này lên đỉnh
cao quyền lực trong tương lai, các chuyên gia chính thống cần phải phục hồi niềm
tin của dân Mỹ vào khả năng chuyên môn trong chính sách đối ngoại. Bessner và
Wertheim đưa ra năm đề nghị khó khăn nhưng cần thiết như sau.
Một, các viện nghiên cứu và mạng lưới chuyên môn nên
hướng dẫn tổ chức các cuộc tranh luận dân chủ. Các chuyên gia chính sách đối
ngoại nên tiếp xúc với mọi thành phần công dân khi đưa ra các khuyến nghị lớn.
Thay vì vận động một chương trình hành động duy nhất, họ nên trình bày các chi
phí và lợi ích của các chính sách thay thế hợp lý hoặc huy động được sự yểm trợ
rộng lớn. Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện nên tiếp tục thực hiện cung cách thời
Chiến tranh Lạnh của mình để tổ chức các buổi điều trần công khai bên ngoài
Washington.
Hai, các viện nghiên cứu chính sách nên tạo ra các
chi nhánh địa phương vươn ra ngoài các thành phố phía Đông Bắc. Điều này sẽ làm
cho thường dân Mỹ thấy rằng chuyên gia chính sách đối ngoại tôn trọng và mong
muốn họ tham dự các vấn đề này. Qua các sự kiện công cộng này, giới chuyên gia
sẽ học hỏi cách ghi nhận các chính sách đối ngoại ảnh hưởng như thế nào lên các
thành phần dân số khác nhau.
Ba, giới chuyên gia nên có tiếng nói thường xuyên
trên các kênh truyền thông phi truyền thống mà trong đó một phần lớn cộng đồng
Mỹ thảo luận về chính trị. Hiện tại những chuyên gia nào xuất hiện trên truyền
hình CNN hay báo New York Times… thường được công
nhận mang tính chuyên nghiệp hơn là xuất hiện trên các đài phát thanh, trang mạng
hay podcasts. Nhưng Bessner và Wertheim biện luận rằng các phương tiện này quan
trọng vì nó với tới nhiều thành phần cử tri đáng kể trong thời đại quá phân cực
ngày nay. Giới chuyên gia không nên loại bỏ vị thế này vì tính giáo điều.
Bốn, vì quyền lợi chung nên cả chuyên gia lẫn công
chúng cần ủng hộ Quốc hội đóng một vai trò lớn mạnh hơn trong việc hình thành
chính sách đối ngoại. Kể từ thập niên 1990, Quốc hội đã trao quyền và sáng kiến
cho hành pháp. Nó đã mất quyền quyết định chiến tranh và cho phép các cơ quan điều
tra và điều trần trở nên mất tác dụng. Nếu tình thế này tiếp tục, dân chúng sẽ
mất luôn cách tốt nhất để ảnh hưởng lên chính sách đối ngoại.
Năm, chuyên gia chính sách đối ngoại cần xây dựng một
văn hóa có trách nhiệm giải trình. Công dân xứng đáng được biết những cá nhân
nào đã góp phần hình thành các chính sách đối ngoại tệ hại sẽ không còn được
hoan nghênh trong các viện nghiên cứu hoặc các cơ quan tương tự. Mặc dầu chuyên
gia có toàn quyền để bảo vệ luận điểm và lý lịch của mình, họ phải chịu cái giá
nghề nghiệp đáng kể nếu ủng hộ các chính sách tệ hại. Một văn hoá trách nhiệm
giải trình sẽ xây dựng lại niềm tin của người dân về chuyên gia, qua đó khuyến
khích các chuyên gia đưa ra lời khuyên thận trọng trong tương lai.
Sự
cần thiết của chuyên gia
Bessner và Wertheim cho rằng đây chỉ là những bước
khởi đầu để phục hồi niềm tin công chúng vào giới chuyên gia. Các chuyên gia khả
kính là không thể thiếu đối với hoạt động của một xã hội hậu công nghiệp theo định
hướng tri thức.
Nhưng giới chuyên gia cần ghi nhận điều ngược lại
cũng đúng. Các chuyên gia về chính sách đối ngoại phải liên kết lại với công
chúng và khuyến khích sự tham gia của thường dân vào các vấn đề thế giới.
Bessner và Wertheim kết luận rằng nhiều thập niên
qua, những nhà làm chính sách đối ngoại của Mỹ tranh luận về cách làm sao dùng
chính sách đối ngoại để cổ vũ dân chủ khắp thế giới. Công việc cấp bách bây giờ
là dân chủ hóa chính sách đối ngoại ngay trên quê hương mình.
Vài
lời kết
Cả năm đề nghị của Bessner và Wertheim đều thiết thực
để khôi phục lại nền dân chủ và sức mạnh của Mỹ, trong đó chính sách đối ngoại
sẽ luôn đóng một vai trò then chốt. Riêng đề nghị số năm thì hơi phức tạp, bởi
rằng một chính sách sẽ thành công hay thất bại còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu
tố, và một khi được thực hiện là đã đi qua biết bao nhiêu con người và chặng đường.
Nhưng mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ ai là người có quyền tối cao để quyết định một
chính sách lớn sẽ được thi hành hay không, ngoài lãnh đạo tối cao của quốc gia.
Trong lúc vận động tranh cử, Trump cũng chủ trương
phá vỡ thành trì quyền lực bấy lâu nay. Đúng là một số thành trì quyền lực cần
phải được cải tổ thì nước Mỹ mới có cơ hội vĩ đại trở lại, nhưng những điều
khác biệt lại chính là sức mạnh thật sự của nước Mỹ. Biết được sức mạnh và nhược
điểm của từng cái là bước một. Còn giật sập hay cải tổ được hay không mới quan
trọng. Trump có biết và có áp dụng nguyên tắc điều khiển quốc gia bằng cách duy
trì các mục tiêu và quyền lực của mình trong trạng thái cân bằng không thì chưa
rõ! Bốn năm tới không biết Trump sẽ làm được bao nhiêu điều mình hứa hẹn, nhưng
nếu chỉ đánh giá trong thời kỳ trăng mật thôi thì Trump thất bại nhiều hơn
thành công, từ chính sách đối nội đến đối ngoại. Thật sự cho đến nay những
chuyên gia hàng đầu về ngoại giao cũng không rõ chính sách ngoại giao của chính
phủ Trump về Trung Quốc, Nga, Âu Châu, Bắc Hàn hay Syria như thế nào.
Dù sao Trump vẫn còn nhiều thời gian để học hỏi và sửa
đổi. Dù Trump có thất bại hoàn toàn đi nữa thì Trump vẫn là cơ hội tốt để toàn
nước Mỹ rút ra những bài học quan trọng hầu tìm được những sáng kiến và công thức
mới đưa nước Mỹ thật sự vĩ đại trở lại, nhưng không phải theo kiểu của Trump.
Dân chủ hóa nền ngoại giao Mỹ, như Bessner và Wertheim biện luận, có thể là một
trong các giải pháp quan trọng đó.
Tài
liệu tham khảo:
§ Daniel Bessner and Stephen Wertheim, “Democratizing U.S. Foreign Policy”,
Foreign Affairs, 05/04/2017. Vì bài viết rất giá trị nên tôi lược dịch phần lớn
bài này và cố giữ nguyên ý và nội dung của tác giả.
§ Julie Smith và Loren Dejonge Schulman, “Bannon’s Demotion Means the Trump
Team Is Learning — Even if Trump Isn’t”, Foreign Policy, 06/04/2016.
§ Michael Fullilove, “Seeking clarity in Australian foreign policy”, Lowy
Institute, 15/02/2017.
§ Tom Nichols, “How America Lost Faith in Expertise”, Foreign Affairs,
Volume 63, Number 2, trang 60 đến 73, Tháng Ba/Tư 2017.
No comments:
Post a Comment