James O. Clifford, Sr
Toàn
Như chuyển ngữ
March
14, 2017
Có phải cuộc thảm sát ở Huế là một bí mật đã bị giữ kín
nhất trong chiến tranh Việt Nam không? Đúng
như vậy nếu bạn căn cứ vào giới truyền thông đại chúng của Mỹ để tìm kiếm những
bài học lịch sử. Đó là kết luận của tôi (James O. Clifford, Sr , tác giả bài
báo này) sau 40 năm trong ngành báo chí, một nghề nghiệp mà tôi đã trải qua với
cả hai hãng thông tấn UPI và AP, được coi như là những cơ quan thu lượm tin tức
lớn nhất thế giới.
Tôi
đã về hưu trong năm 2000 và nay hoàn toàn tự do, nên không phải nói như giới
truyền thông thường nói liên hệ đến nghiệp vụ, như là “đã được bật đèn xanh.”
Cái sự thể hạn chế việc báo cáo về cuộc giết hại ở Huế là một sự che dấu có chủ
ý đã làm tôi khó chịu kể từ khi tôi còn là một phóng viên trẻ của UPI khi được
đọc những báo cáo tóm tắt về cuộc thảm sát. Đó là một việc giết hại có hệ thống
ít nhất là 2,810 thường dân ở Huế (và, theo học giả về Việt Nam Douglas Pike,
có thể lên tới con số 5,700 người), bao gồm các người ngoại quốc, các nhà trí
thức, các lãnh đạo tôn giáo và chính trị và nhiều người khác, rõ ràng đã được
thực hiện bởi các Việt Cộng địa phương hơn là bởi các bộ đội chính quy của Quân
Đội Nhân Dân Việt Nam (ghi chú của người dịch: người Mỹ thường gọi Việt Cộng
(VC) để chỉ những tên Cộng Sản hoạt động tại miền Nam, để phân biệt với những
tên Cộng Sản từ miền Bắc xâm nhập). Sau khi cái nấm mồ chôn tập thể đầu tiên được
khám phá vào ngày 26 Tháng Hai, 1968, lúc cuộc giao tranh ở Huế đã chấm dứt, cuộc
thảm sát kinh hoàng ở Huế dường như đã bị gạt ra ngoài các sự tường thuật của
báo chí chính yếu – và chưa hết, qua nhiều năm, tôi để ý thấy câu chuyện vẫn bị
lãng quên.
Việc
thiếu tường thuật này đã cho tôi thấy rằng vai trò của báo chí như là người
giám sát lịch sử đã thay đổi một cách dữ dội kể từ khi tôi gia nhập ngành báo
chí…
Riêng
về tấm ảnh của Adams, nó cần có cả ngàn lời để diễn tả nó cho chính xác. Cuộc
hành quyết đã xảy ra trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân và đã làm cho nhiều người
tự hỏi là Hoa Kỳ có nên ủng hộ một chính quyền coi việc giết người như một trò
vui hay không. Người đã bóp cò súng đó là Nguyễn Ngọc Loan, một vị tướng trong
ngành cảnh sát miền Nam Việt Nam, đã từ trần ở Virginia trong năm 1998. Nhưng
cuối cùng ông đã trở thành một người bạn của Adams. Người nhiếp ảnh gia đã bày
tỏ sự hối hận trong lời phân ưu Tướng Loan rằng việc giết người và kẻ giết người
đã bị hiểu sai lạc. Adams nói, “Tôi không thích nhìn thấy ông ấy ra đi như thế,
khi mà người ta vẫn còn chưa biết gì về ông ấy.” Ông ta đã gọi (Tướng) Loan là
“một anh hùng” và nói rằng nước Mỹ hãy nên khóc. Tôi không biết chắc là Adams
có ý nói rằng chúng ta nên khóc trước cái chết của Tướng Loan, hay qua cái bất
công về sự tường thuật việc hành quyết trên đường phố 30 năm trước.
Người
đàn ông bị Tướng Loan giết là một phiến quân VC, người đã vừa sát hại một sĩ
quan cảnh sát và gia đình của người này. Người lính đối phương trong trang phục
thường dân, có thể đã làm cho hắn bị xử tử một cách hợp lệ trong nhiều cuộc chiến
tranh của Mỹ trước đây. Điều đó không phải để nói rằng việc giết người đó là
chính đáng. Đáng lý ra, người đàn ông nên bị bắt giữ để xét xử. Nhưng tấm hình
một mình nó đã để lại cái cảm tưởng là Tướng Loan là một tên sát nhân lạnh lùng
(coldblooded killer), trong khi đó sự thật ông là một con người khác hẳn. Ông
đã quá tức giận bởi sự tàn sát mà tên tù binh đã thực hiện.
Tôi
ngạc nhiên thấy rằng cái ấn tượng về cuộc chiến Việt Nam trong ý thức của quần
chúng trong nhiều thập niên thường thiên về một phía. Tường thuật một cuộc chiến
không phải là điều dễ dàng, nhưng nó lại tương đối dễ dàng ở Việt Nam. Một vài
hạn chế đặt cho các phóng viên ở chiến tranh Đông Nam Á rất là nhỏ so sánh với
những quy định đã được đặt ra cho những cuộc chiến trước kia. Phóng viên trong
các cuộc chiến tranh trước bị hạn chế nghiêm ngặt bởi các qui luật quân sự, như
việc nơi nào họ được phép đến và cái gì họ được phép đưa tin. Hành động kiểm
duyệt là việc bình thường.
Chẳng
hạn như trong Thế Chiến II và chiến tranh Cao Ly, các phóng viên được coi như
là một bộ phận quân sự, thành viên của đơn vị. Họ cũng mặc quân phục, nhưng
trái ngược ở Việt Nam phần nhiều các phóng viên thích mặc áo ký giả và thường
phục hơn. Trong thời gian đầu của cuộc chiến, các phóng viên thường được coi
như là cái đuôi của quân khuyển. Cái đuôi có thể đã có một đời sống riêng ở Việt
Nam, vì nó chỉ vẫy đuôi về một phía. Một thí dụ điển hình tương phản về cách giải
quyết của giới truyền thông qua các cuộc thảm sát ở Mỹ Lai và ở Huế.
Nếu
những sự tàn ác khác không được báo cáo, như cuộc nổ súng ở Mỹ Lai đã xảy ra
trong một thời gian dài, tôi có thể hiểu được tại sao. Bạn không thể biết được
tất cả mọi sự. Tuy nhiên, biết một điều gì đó và không báo cáo nó lại là một vấn
đề khác. Vì những lý do thực tiễn việc giết hại ở Huế đã không được báo cáo.
Trong
khi đó, vụ Mỹ Lai vẫn không để cho chúng ta yên. Năm 1998, 30 năm sau vụ Mỹ
Lai, cả nước lại chú ý đến tin về một người tên là Hugh Thompson. Thompson là một
phi công trực thăng, được vinh danh là người đã cứu sống những người ở Mỹ Lai
thoát khỏi sự tàn sát từ những đồng đội Mỹ. Câu chuyện được kể ở khắp nơi, ca tụng
hành động anh hùng của Thompson ở trong “một trong những thời kỳ đen tối của quân
sử Mỹ,” và còn thêm rằng “có một chút tia sáng là: câu chuyện ít được biết của
Thompson.” Câu chuyện của Thompson quả ít được biết đến, nhưng hầu như lại còn
ít được biết đến hơn nữa là cuộc thảm sát ở Huế đã xảy ra hai tháng trước cả vụ
Mỹ Lai.
Sự
thiếu tường thuật phải chăng bắt nguồn từ một quan niệm? Tôi không dám chắc như
vậy. Tôi nghi ngờ rằng nhiều phóng viên trẻ hơn, trong khi biết rất rõ về Mỹ
Lai, cũng biết khá nhiều về cái thời kỳ đen tối của Huế như dư luận chung. Có
thể những phóng viên lớn tuổi hơn cũng vậy. Tuy nhiên, người ta muốn bỏ qua vì
nghĩ rằng các phóng viên muốn giữ câu chuyện về Huế được chôn vùi giống như số
phận các nạn nhân kém may mắn của nó. Một lý do để tôi nói lên điều này nữa là
con số người chết trong nhiều báo cáo lại khác nhau, với vụ Mỹ Lai con số thường
được gia tăng, trong khi đó vụ giết người ở Huế theo báo chí con số lại bị giảm
đi.
Theo
bản tin AP ngày 13 Tháng Ba, 1998, đánh đi từ Hà Nội nói về một cậu bé từng được
Thompson cứu sống. Bản tin nói rằng tổng cộng có 504 người chết tại Mỹ Lai,
theo con số của Việt Nam đưa ra. Trong khi đó bản tin của CNN nói về buổi lễ
vinh danh Thompson ở Mỹ Lai lại báo cáo rằng xướng ngôn viên trong ngày lễ đã kể
rằng “người Mỹ xâm lược đã giết hại 407 người” trong ngôi làng hẻo lánh, mà nay
đã có một nhà bảo tàng trưng bày những hình ảnh về cuộc thảm sát.
Các
bạn thấy đó, địa danh Mỹ Lai đã được liên hệ đến vụ thảm sát, nhưng Huế chỉ được
coi như một ”bãi chiến trường” không nhắc nhở gì đến cuộc thảm sát thường dân bị
Cộng Sản bắt ở thành phố này…
Porter
đặt câu hỏi về những con số chính thức được đưa ra cho rằng có gần 5,000 người
bị giết ở Huế. Không chỉ thắc mắc, ông còn viết rằng, “có những bằng chứng đầy
đủ để kết luận rằng sự việc được mang đến cho công luận Mỹ bởi những cơ quan
tuyên truyền của miền Nam Việt Nam và Mỹ không đúng với sự thật, mà ngược lại,
đó là kết quả của một sự vận động chiến tranh chính trị bởi chính quyền Sài
Gòn, được tô vẽ thêm bởi chính phủ Mỹ và đã được giới báo chí Mỹ chấp nhận mà
không hề thắc mắc.”
Porter
không chỉ là người duy nhất có học vị có cái quan điểm như vậy. Cũng có một số
người khác như Grover Furr, một thành viên trong Phân Khoa Anh Ngữ của trường đại
học Montclair ở New Jersey, nơi ông giảng dạy về chiến tranh Việt Nam. Trong một
cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo của nhà trường, ông đã nói rằng “cái gọi là cuộc
thảm sát” chỉ là “ngụy tạo bởi CIA và tình báo của Nam Việt Nam.” Furr còn nói
trong tờ báo rằng vụ thảm sát Mỹ Lai là “trên nguyên tắc, không phải là một ngoại
lệ.”
Trong
khi sưu tầm cho bài báo này, tôi đã điện thoại cho Furr và yêu cầu ông ta cung
cấp những nguồn tin về lời tố cáo của ông. Ông đã viện dẫn bài viết của Porter.
Câu hỏi đặt ra hôm nay là: Những sự tố cáo của Porter có được chấp nhận không cần
phê phán của giới báo chí Mỹ không?
Những
sử gia hàng đầu như Stanley Karnov đã từ lâu chấp nhận cái sự thật về cuộc thảm
sát, trong khi đó cái dòng tin chính thống lại hầu như im lặng. Có lần tôi cố gắng
nói với vị trưởng phòng của tôi ở New York để đưa tin về vụ thảm sát ở Huế, đã
được bà trả lời rằng, “Các chàng trai của chúng ta đâu có làm chuyện đó,” – ý
bà nói là các người lính My – như ám chỉ rằng bởi vì vụ thảm sát Huế được thực
hiện bởi “những chàng trai của họ” chứ không phải là của chúng ta, nên nó chẳng
xứng đáng để được đưa tin.
Thêm
vào đó, người ta cũng chẳng coi việc tàn sát ở Huế như là một tin tức sốt dẻo.
Về việc này, tôi có thể hiểu được phần nào, qua công việc của tôi với AP, tôi
đã phải đọc bảy tờ báo mỗi ngày. Trong 10 năm sau cùng, số lượng tin tức liên quan
đến Huế có thể đếm được trên đầu ngón tay, hầu hết chỉ liên quan đến những cuộc
giao tranh. Nếu chúng có đề cập đến vụ thảm sát thì cũng chỉ phớt qua. Một vài
bản tin chỉ vắn tắt nói rằng chính phủ (Cộng Sản) Việt Nam ngày nay không muốn
đề cập đến vụ giết người, một sự tránh né một cái tin quan trọng đối với họ. Điều
này càng nổi bật khi ngày nay có nhiều viện bảo tàng ở Việt Nam được lập ra để
đề cao cái mà nhà cầm quyền Cộng Sản gọi là “Cuộc Chiến Tranh Chống Mỹ…”
Sự
thiếu đưa tin đã đi vào toàn thể giới truyền thông trong nước. Các độc giả và
thính giả đã kết luận thế nào khi họ biết được sự việc đẫm máu ở Huế qua các
nguồn tin khác hơn là từ giới truyền thông chính thống? Quả đã có nhiều nguồn
tin khác, đặc biệt là hiện nay có rất nhiều người Việt Nam sinh sống tại Mỹ. Mặc
dù tôi biết rằng điều này không ảnh hưởng đến tin tức, nhưng tôi cảm thấy những
người tị nạn có thể đã hài lòng về sự tò mò của tôi ít ra là đối với một phần
trong công việc của Porter.
Porter
nhấn mạnh rằng những báo cáo ban đầu căn cứ vào những tài liệu bắt được của Cộng
Sản mà các giới chức Mỹ đã diễn dịch ý nghĩa không đúng. Sự tranh luận của ông
đặc biệt căn cứ vào câu “Chúng tôi loại trừ (eliminate) 1892 công chức.” Porter
viết rằng “chữ ‘diết’ (hay diệt?) (có lẽ là ‘giết’- tác giả viết sai chính tả?)
được dịch ra tiếng Anh là ‘loại trừ’ (eliminate) phải được hiểu có nghĩa là
‘tiêu diệt’ (destroy) hay ‘vô hiệu hóa’ (neutralize) theo nghĩa quân sự, hơn là
mang nghĩa là ‘giết’ (kill) hay ‘thanh toán’ (liquidate).” Ông bạn Việt Nam
láng giềng của tôi đã nói mà không hề biết nội dung bài báo nói rằng chữ ‘diết’
có nghĩa là “kill” (giết) hay “exterminate” (tàn sát). Porter thì giải thích rằng
“loại trừ” (eliminate) không có nghĩa rằng các nạn nhân đã bị giết hại. Theo
ông, họ có thể bị loại ra khỏi cuộc chiến vì bị bắt, bị thương, hay bị chết
trong lúc giao tranh.
Ngoài
những người Mỹ gốc Việt, các phóng viên ngày nay còn có những nguồn thông tin từ
hàng ngàn cựu chiến binh đã tham gia trận đánh Huế có thể kể lại. Chẳng hạn như
ông bạn hàng xóm của tôi, Dan Diridoni, nguyên là Hạ Sĩ Nhất của Tiểu Đoàn 9
Công Binh thuộc Sư Đoàn 1 TQLC. Ông đang giúp cho Jean Shellenbarger thu thập
những tài liệu cho một cuốn sách viết về TQLC. Ông nhớ lại, “Một trong những điều
buồn nhất mà tôi đã nhìn thấy là ở một ngôi giáo đường. Đó là đã có khoảng từ
100 đến 150 người đã bị thảm sát trong nhà thờ này.”
Ngoài
ra, thời gian qua đã lâu và ngày nay nhiều hồ sơ mật về Huế cũng đã được bạch
hóa. Chắc chắn các phóng viên có thể thu thập được nhiều thông tin về Huế căn cứ
vào Bộ Luật Về Tự Do Thông Tin. Để thực hiện, họ có thể đặt câu hỏi một cách
nghiêm túc rằng bộ máy tuyên truyền quân sự của miền Nam Việt Nam đã thổi phồng
quá đáng sự tàn ác, hay đó là hành động điên rồ của binh lính (Cộng Sản) chứ không
phải do lệnh từ Bắc Việt…
Trong
sự nghiên cứu của riêng tôi, tôi đã tìm thấy một cuộc nghiên cứu trong năm 1970
của công ty Rand Corporation thực hiện cho chính phủ Mỹ liên hệ đến Huế. Trong
số các báo cáo có đề cập đến một cuốn sổ tay của một cán binh đối phương đã
tham gia cuộc hành quân ở Huế.
Theo
các nhà nghiên cứu Rand, cuốn sổ tay đã nói đến cái “chiến thắng vĩ đại” mà
trong đó “hơn 3,000 người của VNCH , kể cả vị phó tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên,
đã bị giết.” Nó cũng nói rằng, “toàn bộ hệ thống chính quyền bù nhìn từ xã lên
tới tỉnh đã bị hủy diệt hoặc bị tan rã.” Cuốn sổ tay, theo cuộc nghiên cứu, bắt
được vào ngày 22 Tháng Sáu, 1968, không bởi các lực lượng của VNCH, mà bởi các
đơn vị của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ.
Tuy
nhiên, những gì đã xảy ra ở Huế đó ngày nay vẫn chỉ là một công trình nghiên cứu
cũ mốc đã 30 năm qua. Cựu Phó Tổng Thống Al Gore đã làm sống lại một niềm vui
và như muốn mở lại cuộc điều tra khi ông trả lời phỏng vấn của tạp chí Rolling
Stone trong cuộc vận động tranh cử tổng thống vào năm 2000. “Những ai trong
chúng ta chống lại chiến tranh hoàn toàn sai lầm khi tin rằng Việt Cộng là một
lực lượng cách mạng dân tộc muốn quê hương thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang.
Họ hoàn toàn chỉ là một công cụ của Quân Đội Bắc Việt,” ông đã nói như vậy khi
hồi tưởng thời gian phục vụ tại Việt Nam.
Mặc
dù tin tức nơi các cột báo vẫn im lìm, nhưng đã có nhiều lá thư đôi khi xuất hiện
trên các trang thư độc giả. Một thí dụ điển hình như trên tờ Register-Guard ở
Eugene, tiểu bang Oregon, ngày 6 Tháng Hai, 1998, Donald May, tự nhận là một cựu
binh của Sư Đoàn 101 Không Kỵ đã viết, “Vụ thảm sát Mỹ Lai vẫn còn là một nhắc
nhớ ám ảnh đầy thất vọng, nhưng trong khi đó việc thảm sát ở Huế vẫn còn bị
lãng quên bởi giới báo chí và dân chúng Mỹ vẫn chưa được biết đến.”
No comments:
Post a Comment