Jason Gibbs
Viết
cho BBC Tiếng Việt
28 tháng 2 2017
Đặng
Thế Phong có hai mảnh đời khác nhau. Cuộc đời của ông khi bố ông còn sống, và
cái thời kỳ sau khi bố ông mất độ năm 1935.
Khi bố ông còn sống gia đình của ông được hưởng cuộc
sống ổn định, khá giả của một công chức của sở Trước Bạ Nam Định. Gia đình họ Đặng
ở nhà số 9 Hàng Đồng là trung tâm thành phố Nam Định. Vì vậy, ông Đặng Hiển Thế,
bố của Đặng Thế Phong, cho con mình được học tại các trường uy tín nhất xứ Nam
Định là Trường Thành Chung (tức là École primaire superieure franco-indigène de
Nam-Dinh) và trường dòng L'École St. Thomas D'Aquin. Khi bố ông mất cuộc đời của
ông vào bước ngoặt mới.
Quảng cáo, Học Sinh 5 tháng 5 1939, tr. 18
Nhiều nhạc sĩ Việt nổi tiếng xưa đều bị mồ côi cha
sớm giống Đặng Thế Phong bao gồm Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Trần Tiến.
Không biết như vậy cũng là nguyên cớ giúp các nhạc sĩ theo nghề xướng ca vô loại,
là không bị bố bắt phải học kiếm bằng và lên chức. Với Đặng Thế Phong cũng như
Phạm Duy thì tình thế này đã giúp hai người nổi máu giang hồ xách đàn ra đi.
Thời thanh niên của Đặng Thế Phong là rất
"thanh niên." Nhà văn Phạm Cao Củng kể rằng nhạc sĩ Phong thích bơi lội
và từng đi trẩy Hội Chùa Hương. Phạm Cao Củng kể về lúc hai anh em ngủ trong
chùa Ngoài ngắm ánh trăng. Một điều chắc chăn nữa là Đặng Thế Phong là hướng đạo
sinh hay đi cắm trại. Trong khoảng thời gian ấy Đặng Thế Phong cũng hay lên Hải
Phòng ở với Phạm Cao Củng và làm quen với hai anh em Hoàng Kim Quí và Hoàng Phú
(tức hai nhạc sĩ Hoàng Quý và Tô Vũ).
Giống một số nhạc sĩ tiền phong lúc bây giờ như Phạm
Duy, Văn Cao, Nguyễn Đình Phúc và Nguyễn Đức Toàn, Đặng Thế Phong học hội họa một
thời tại L'École Supérieure des Beaux-Arts de l'Indochine (Trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương). So với các nhạc sĩ được nhắc đến ở trên, Đặng Thế Phong là một
người anh, một người đi trước. Có nghĩa là phải cố tìm cách mưu sinh trong thời
gian này khi mà tân nhạc chưa có cơ sở để giúp đỡ một người nhạc trẻ kiếm sống
bằng con đường nghệ thuật của mình.
Các nguồn chính (primary source) về cuộc đời Đặng
Thế Phong cũng hiếm, nhưng một giai đoạn của đời ông được chứng minh bằng tư
liệu là thời ông làm cho báo Học Sinh ("pour la jeunesse scolaire")
do Phạm Cao Củng thành lập. Học sinh là những trang phụ lục của Tiểu Thuyết Nhật
Báo dành cho giới trẻ được xuất bản từ 5 tháng 5 1939. Vì cảnh nghèo Đặng Thế
Phong phải bỏ dở học hành ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật để kiếm sống. Ông được
cái may là được tựa vào một người anh kết nghĩa Phạm Cao Củng và ông cũng đã
cho nhạc sĩ này làm cho tờ báo mình.
Tên Đặng Thế Phong xuất hiện trong số báo đầu tiên
trong mục quảng cáo "những bài hát của
nhạc sỹ trẻ tuổi Đặng Thế Phong đặt ra riêng cho các em nhỏ Học Sinh."
Tôi cho lời đó chứng minh rằng Đặng Thế Phong là một người có kinh nghiệm tổ
chức và dạy nhạc cho các em hướng đạo sinh, dạy các bài ca Pháp với lời Việt,
và đã bắt đầu sáng tác ca khúc cho lứa tuổi ấy.
Ngày 22 tháng 6 1939 bài ca "Sáng trong rừng"
của Đặng Thế Phong được đăng trên trang Học Sinh. Bài ca này được "riêng tặng
các bạn 'Hương đạo sinh' và Sói con'." Lời ca "Sáng trong rừng"
tỏ ra nhiều xúc cảm và đắm mê bởi cảnh đẹp rực rỡ của bình minh - "Tâm hồn
ai không say đắm cảnh rừng tuyệt với." Ông soạn một giai điệu có tính vui
của hành khúc kèn lệnh, nhưng cũng có nét buồn của điệu rê / D thứ.
"Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong, Học Sinh 22 tháng 6
1939, tr. 7
Bài ca "Sáng trăng" được đăng trên
báo Học Sinh ngày 24 tháng 8 1939. Theo nhịp "gai et rythmé" (vui vẻ
và nhịp nhàng) Đặng Thế Phong soạn một ca khúc ngắn theo điệu re / D trưởng.
Giai điệu này cũng có tính kèn lệnh dễ cho thiếu niên hát. Lời ca của
"Sáng trăng" khuyến khích các em hướng đạo sinh vui lên để đỡ buồn nhớ
khi cắm trại xa nhà.
"Sáng trăng" của Đặng Thế Phong, Học Sinh 24 tháng 8 1939, 8
Kèm theo các sinh hoạt tòa soạn, báo Học Sinh cũng tổ
chức những buổi văn nghệ. Trên trang 13 của số báo ngày 23 tháng 11 1939 có một
tấm ảnh với Ban Kịch Học Sinh vừa biểu diễn ở Chợ Phiên Thanh Niên ở Hà Nội hai
hôm 18 và 19 tháng 11 1939. Trong tấm ảnh ấy có ba người lớn và bẩy em học
sinh. Bên trái là "anh Đặng Thế Phong đứng đầu ban âm nhạc." Còn hai
người lớn khác thực hiện dàn cảnh cho ban kịch là "chị Nga" (tức Phạm
Thị Trường, vợ của Phạm Cao Củng) và Vũ Đức Toa (một nhà văn cũng có tên bút Muỗi
Sài Gòn). Có bốn người trai trẻ cầm các nhạc cụ như phong cầm, banjo, ghi ta và
violon. (Một chi tiết thú vị là người đứng trước chị Nga và cầm cây đàn banjo
là Hà Đình Thau sau này được biết đến với tên bút Từ Linh là bạn thân của nhạc
sĩ Đoàn Chuẩn. Người thiếu nhiên đứng bên cạnh Đặng Thế Phong và cầm kèn phong
cầm tên là Hà Đình Kim, chắc là anh của Hà Đình Thau).
Ban Kịch Học Sinh, Học Sinh 23 tháng 11 1939, tr. 14
Báo Học Sinh không đăng nhiều thông tin về âm nhạc của
ban nhạc thiếu niên này biểu diễn. Chỉ có một chi tiết là "hai em Nguyễn
Bá Lộ và Hà Đình Thau đã rập ra cùng các bạn hát bài "Quay quanh, quay
quanh", hòa với kèn accordéon, rất vui, như dục [giục] hết thẩy các người
xem cùng đứng giậy, giắt tay nhau, ca hát và quay tròn..." Bài "Quay
quanh" không biết có phải là một tác phẩm của Đặng Thế Phong sáng tác hay
là một bài tây đặt lời Việt?
Tấm ảnh này chứng tỏ thêm một điều quan trọng là năm
đó Đặng Thế Phong là một người nhạc sĩ có đủ trình độ để tổ chức và diễn tập một
đội âm nhạc. Ông phải dạy bốn nhạc cụ cho bốn học sinh trẻ. Và trong tấm ảnh ta
cũng được gặp một thanh niên đúng 20 tuổi, cao, khỏe, đẹp trai và ăn mặc lịch sự.
Từ 26 tháng 10 báo Học Sinh bắt đầu quảng cáo một
bài ca mới của Đặng Thế Phong. "Đêm thu" mới được đăng trên
trang Học Sinh ngày 28 tháng 12 1939 trong số báo đặc biệt dành cho "các
em gái." Lời ca của bài ca này cũng vẽ cảnh đẹp của thiên nhiên như
"Sáng trong rừng." Buổi sáng thì xôn xao đầy hy vọng của một ngày mới,
song ban đêm thì lại "im như mắc buồn." Khác với các bài ca hướng đạo
sinh ngắn, "Đêm thu" là một bài ca trọn vẹn mà cũng chuyển điệu từ
sol / G thứ sang sol / G trưởng. Các nghệ sĩ biểu diễn bài ca này từ xưa đến
nay hay hát đoạn điệu thứ theo nhịp chậm rồi hát đoạn trưởng nhanh hơn. Nhưng,
thực ra khi ghi bài "Đêm thu" trên trang báo Học Sinh nhạc sĩ đặt ra
nhịp "tempo di valse moderato" nghĩa là toàn bài ca nên biểu diễn
theo nhịp valse vừa.
Khi đăng trên trang báo, "Đêm thu" đề tên
hai tác giả -- "âm nhạc của Đặng Thế Phong" và "lời ca của Hoàng
Thái." Hoàng Thái là ai vậy? Vai tháng sau Hoàng Thái cũng viết một bài giới
thiệu mục mới của Đặng Thế Phong trên báo đầu năm 1940, như vậy Hoàng Thái là một
người làm việc với báo Học Sinh. Trong Hồi Ký, thì Phạm Cao Củng cho rằng Nguyễn
Trường Thọ, người chú họ của nhạc sĩ "là người đã đặt lời nhiều bản nhạc Đặng
Thế Phong." Hoàng Thái có phải là Nguyễn Trường Thọ? Hay có thể Hoàng Thái
chính là Phạm Cao Củng là người viết lời cho bài ca "Gắng lên chùa"
mà được in trên trang tờ báo Tin Mới năm 1940.
Trong quyển Hồi ký một đời người (1993), Phạm Cao
Lũy đã trích dẫn những lời kể của Nguyễn Trường Thọ về thời gian đó. Ông Thọ
nói rằng lời ca của "Con thuyền không bến" được viết khi hai chú cháu
ở chung trong một nhà tranh tại trại hàng hoa Ngoc Hà.'' Ông Thọ hồi tưởng rằng
ông viết những lời này do một "tình cảm nặng nề" của một mối tình đầu.
Nguyễn Trường Thọ cũng cho rằng lời ca của bài "Vạn cổ sầu" (được phổ
biến với tên "Giọt mưa thu") là của Đặng Thế Phong soạn lời với ông
Thọ góp ý một ít.
Công việc chính của Đặng Thế Phong ở báo Học Sinh
sau một thời gian là vẽ tranh minh họa và tranh chuyện ký. Từ tháng 9 1939 các
tranh của ông được xuất hiện trên trang báo với nhiều tên bút khác nhau như
Phg, Levent (tiếng Pháp là cơn gió - tức phong), thephong, Tổng Phệ, và Khải
Phong. Ông làm minh họa cho các tranh chuyện nhiều kỳ như Giặc cờ đen, Tấm Cám,
và Cảnh Lâm, hồ sám (một chuyện mạo hiểm như Tarzan). Từ tháng 6 1940 thì nhiều
kỳ của các tranh chuyện được ký tên Bình Phong. Không biết đây có phải là Đặng
Thế Phong và họa sĩ Tạ Thúc Bình làm chung. Từ 12 tháng 9 1940 thì Tạ Thúc Bình
thành người họa sĩ chính của báo Học Sinh và Đặng Thế Phong vẽ tranh ít hơn.
Tấm cám, truyện của Phạm Cao Củng, tranh của Đặng Thế Phong, Học Sinh 9
tháng 5 1940, tr. 2
Nhạc sĩ Hoàng Trọng, một người đồng hương của Đặng
Thế Phong, đã kể cho tôi nghe rằng Đặng Thế Phong với Bùi Công Kỳ đã mở ra một
"nhà hàng vẽ" ở Nam Định độ năm 1940. Thực ra Đặng Thế Phong phải
làm nghệ thuật thương mại như một thợ vẽ tranh. Nhưng nói như thế không có
nghĩa là ông thiếu tài năng hội họa. Học ở trường mỹ thuật thì ông biết luật phối
cảnh, biết cách in đá. Làm tranh chuyện ông cũng phải biết phát triển các nhân
vật. Nếu chưa phải là xuất sắc thì nghệ thuật vẽ của Đặng Thế Phong phải coi là
chuyên nghiệp.
*
Jason Gibbs
Viết
cho BBC Tiếng Việt
1 Tháng 3, 2017
Đầu
năm 1940 Đặng Thế Phong soạn một mục giảng dạy những điều cơ sở về nhạc lý như
cái gam, các nốt, khoa, trường độ, v.v.
Như vậy Đặng Thế Phong có một trình độ âm nhạc Tây
phương rất vững chắc. Các bài hát được chép ra rất đúng, và các nốt giai điệu hợp
với luật hòa âm nhạc tây phương. Chắc người nhạc sĩ đã được đào tạo rất tốt ở
trường dòng (và rất có thể Đặng Thế Phong từng theo đạo Thiên Chúa - em út của
nhạc sĩ, Đặng Thanh Kim vừa qua đời năm 2016, là tín đồ công giáo). Ngoài tài
năng và nền học thức, Đặng Thế Phong cũng giữ một niềm đắm mê âm nhạc. Theo ký ức
của Nguyễn Trường Thọ thì "Phong thích ôm cây lục huyền cầm nghêu ngao hát
suốt ngày." Đặng Thế say mê âm nhạc đến hơi thở cuối cùng. Lúc lâm chung,
ông xin em út của mình ca và đàn bài "Serenade" của Schubert cho mình
nghe.
Báo Trung Bắc tân văn của 22 tháng 12 1940 có bài
phê bình kịch Cái Vạ của Vũ Trọng Can biểu diễn hôm 16 tháng 12 tại rạp Olympia
nói đến sự tham gia của một ca sĩ tên Thế Phong. Số cuối cùng của báo Học Sinh
xuất bản 14 tháng 1 1941 báo cáo các thành viên của một báo mới có tên Chiếu
bóng. Tên Thế Phong có mặt trong tòa soạn. Không biết tờ báo ấy có bao giờ xuất
bản, nhưng ít lâu sau Đặng Thế Phong đã đi vào Nam để cố kiếm sống bằng cách dạy
âm nhạc và vẽ pa-nô cho rạp chiếu bóng ở Nam Vang.
Tôi chưa thấy tư liệu nào nói ông mắc bệnh lao từ
lúc nào, nhưng chính bệnh nhân Đặng Thế Phong là hình ảnh được trao cho chúng
ta. Nhạc sĩ / họa sĩ Nguyễn Đình Phúc đến hội Trí Tri nghe ông hát và kể đến
"một thanh niên, mặt xanh lướt như
được nặn bằng sáp, đang vừa đệm ghita, vừa hát… Cái mặt sáp ong đã xanh lại
càng xanh trắng bệch ra. Đặng Thế Phong ôm ngực ho, một cơn ho rũ rượi."
Đến xem Đặng Thế Phong ở rạp Olympia Nguyễn Ngọc Oánh cũng nhắc đến một
"hình ảnh ... đã cho tôi một ấn tượng không quên về nghệ sĩ tài ba ấy
trong hoàn cảnh nghiệt ngã của lịch sử." Đặng Thế Phong qua đời ngày 2
tháng 8 1942 ở Nam Định, chết non như một Franz Schubert của Việt Nam.
"Sáng trong rừng" của Đặng Thế Phong, Học Sinh 22 tháng 6
1939, tr. 7
Nghệ sĩ tài
hoa mệnh yểu Đặng Thế Phong để lại ba ca khúc vượt thời gian là "Con
thuyền không bến," "Giọt mưa thu" và "Đêm thu." Với thêm ba ca khúc được nhắc đến ở trên thì tổng kết thì ông từng sáng
tối thiểu là 6 ca khúc. Tôi biết đến thêm hai ba ca khúc khác nữa. Phạm Duy bàn
đến bài ca "Sáng rừng"
(khác với "Sáng trong rừng)
trong những bài ông viết về lịch sử nhạc tiền chiến trong tạp chí Văn Học năm
1985. Tôi cũng có thêm thông tin về các bài ca "Đồ Sơn" (theo một bài
viết của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, một người khi còn trẻ cũng gửi bài viết cho tạp
chí Học Sinh) và "Sầm Sơn (theo tư liệu Lê Hoàng Long).
Khi còn sống "Con thuyền không bến" và
"Giọt mưa thu," hai kiệt tác của Đặng Thế Phong, chưa được phổ biến rộng
rãi. Nhưng ít lâu sau hai bài ca này được nổi như cồn và thành quen thuộc đối với
giới yêu nhạc cải cách. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam hiếm có bài ca được thu
thanh, biểu diễn và phát thanh nhiều như hai tác phẩm ấy. Mặc dù đã chưa được
thu thanh hay in làm bản nhạc, nhiều người từng sống những năm Đại Chiến thứ II
(1941-1945) đều nhắc đến hai bài ca này trong hồi ký và khi trả lời phỏng vấn.
Chắc chúng được dần dã phổ biến nhờ việc ghi chép vào các quyển sổ và nhờ chuyển
miệng.
Nhạc sĩ Vân Đông nhắc trong hồi ký Một tên gọi, một
cuộc đời và tình yêu âm nhạc rằng ban nhạc của mình ở Quảng Ngãi từng hát bài
ca ấy lúc bấy giờ. Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn Đình Hòa nhắc các bạn bè trẻ Hà
Nội hát "Con thuyền không bến" với nhau. Nhạc sĩ Văn Ký cũng kể rằng
nhóm âm nhạc của mình cũng biểu diễn "Giọt mưa thu" ở Thanh Hóa. Giáo
sư nha khoa Nguyễn Thành Nguyên kể cho tôi nghe rằng khi sang Nhật du học lúc bấy
giờ các nữ du học sinh cũng hát "Giọt mưa thu." Nghĩa là hai bài hát
của Đặng Thế Phong đã đi vào đời sống của thế hệ đó rất nhanh.
Những bài hát của Đặng Thế Phong, tuy ít, vẫn còn được
hát đến hôm nay. GETTY IMAGES
Mồng 3 tháng 9 1946, vài tháng trước kháng chiến
bùng nổ, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tổ chức một buổi nhạc "để tiếp
đón thính giả ngoại quốc." Buổi biểu diễn này có vai trò ngoại giao - các
vị lãnh sự nước Anh, Mỹ, Trung Quốc và một số sĩ quan Pháp đến nghe. Mục đích của
buổi này là trình bày tinh hoa của nền nhạc Việt để đất nước và dân tộc của
mình được công nhận và tôn trọng. Chương trình của buổi biểu diễn được chia ra
thành ba phần. Một phần là nhạc truyền thống Việt Nam (nhạc Huế). Trong phần thứ
hai một dàn nhạc biểu diễn nhạc cổ điển tây phương trình bày một thể loại nhạc
quen thuộc cho người nước ngoại đến nghe. Người Việt có khả năng chơi nhạc cổ
điển cũng chứng minh rằng người Việt được am hiểu một thể loại nhạc quốc tế được
coi như là đỉnh cao của âm nhạc nhân loại. Phần thứ ba gồm ba ca khúc của tác
giả Việt sáng tác. Dưới sự điều khiển của Đinh Ngọc Liên, ban nhạc Vệ Quốc Đoàn
và giọng hát vợ ông là nghệ sĩ Bùi Thị Thái thính giả nước ngoại được nghe bài
"Thiên Thai" của Văn Cao và hai bài "Con thuyền không bến"
và "Giọt mưa thu" của Đặng Thế Phong.
Một điều tất nhiên là trong dịp này họ không thể thể
hiện những tác phẩm "diệt thù," "phan thây uống máu" cho
khách nước ngoại. Nhưng dù thế nữa ba ca khúc ấy được coi như sự gặp gỡ hài hòa
của hai nền âm nhạc tây phương và Việt Nam. Các ca khúc của Văn Cao và Đặng Thế
Phong lấy cảm hứng từ nhạc xứ Việt và được viết và trình bày theo phương pháp
tây phương. Bài "Một buổi hòa nhạc tưng bừng" đăng trên báo Cứu Quốc
ngày 5 tháng 9 1946 kết luận rằng các tác phẩm mới này "làm cho mọi người
say sưa và đặt nhiều tin tưởng vào tương lai âm nhạc Việt Nam."
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp ca khúc của Đặng
Thế Phong còn rất phổ biến rộng rãi và được hát như bình thường. Nhưng ít năm
sau, lập trường văn hóa trong vùng khánh chiến thay đổi. Trong hồi ký Chuyện
mình chuyện đời, nhạc sĩ / họa sĩ Nguyễn Đình Phúc có kể đến một nữ ca sĩ hát
bài "Giọt mưa thu" với tiếng ghi ta "phóng khoáng và bay bướm"
của nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đệm đàn theo. (Bùi Công Kỳ được đề tên là người viết lời
trên bản "Giọt mưa thu" của Hoàng Mai Lưu xuất bản năm 1946). Nhưng
trong chương sau của hồi ký ông, khi Nguyễn Đình Phúc lên chức làm "cán bộ
lãnh đạo của nhà nước" thì ông lại cấm cô ấy hát "Giọt mưa thu"
nữa.
Việc cấm nhạc
Đặng Thế Phong ở nước Việt Nam xã hội chủ nghiã đã kéo dài độ 40 năm đến 1989. Bị cấm không có nghĩa là biến đi. Nhiều người Việt đã giữ các bài ca ấy
trong lòng mình - kể cả giữ lại cho tinh thần chiến đấu. Năm 1966 ở Vĩnh Linh,
Nguyễn Đình Phúc lúc biểu diễn phục vụ lính chiến kể rằng các "anh giải
phóng quân" cứ yêu cầu những bài ca lãng mạn xưa như "Con thuyền
không bến." Chính trị viên quân đội bảo "các nghệ sĩ cứ hát" vì
"chất dân gian và âm hưởng nhạc Việt Nam" trong các bài ca sẽ làm các
người lính hăng hái chiến đấu. Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh cũng kể về giá trị của
một bài ca như "Giọt mưa thu" đối với một nhà văn của phe cũ như Nguyễn
Tuân. Ông kể rằng có một lúc nhà văn này "vừa uống vừa khóc, vừa hát đi
hát lại" bài ca "Giọt mưa thu." Bị phê phán là hát "khóc
nhân tình" thì Nguyễn Tuân bác bỏ nói "mình buồn cho những kiếp người
chịu oan khuất, buồn cho đời."
Ở xứ Việt dưới Pháp quyền rồi sau 1954 ở nước Việt
Nam Cộng Hòa thì nhạc Đặng Thế Phong lại được tha hồ phổ biến. Ba bài "Con
thuyền không bến," "Đêm thu," và "Giọt mưa thu" được
phát thanh nhiều. "Đêm thu" và "Giọt mưa thu" được nhà xuất
bản Tinh Hoa in từ năm 1949. Ca sĩ Minh Trang đã thu "Con thuyền không bến"
cho hãng đĩa Polyphon, Châu Kỳ thu "Đêm thu" cho hãng Philips, Văn Lý
thu "Giọt mưa thu" cho hãng Oria.
Các bài ca Đặng Thế Phong cũng được phát thanh và
thu đĩa băng nhiều ở miền nam thời nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhà xuất bản Diên Hồng
in lại hai bài "Giọt mưa thu" và "Con thuyền không bến."
Nghe ca sĩ Thanh Thúy hát "Giọt mưa thu" đã thành một nguồn cảm hứng
cho Trịnh Công Sơn sáng tác bài ca "Ướt mi." Trong thời kỳ này bài tiểu
sử đầu tiên về nhạc sĩ Đặng Thế Phong xuất hiện. Trên bìa sau của "Giọt
mưa thu" (ẩn phẩm Diên Hồng năm 1964), Lê Hoàng Long cho lên một tấm ảnh một
số chi tiết về đời nhạc sĩ mà ông trích từ tập 2 của của cuốn Nhạc sỹ Danh tiếng
Hiện đại (hình như không xuất bản?).
Sau khi nước
Việt được thống nhất thì các bài hát Đặng Thế Phong bị cấm toàn quốc. Ngày 15 tháng 10 năm 1989 Cục Văn hóa và Múa bắt đầu cấp phép cho các
bài ca xưa được phép lưu hành. Ba bài ca của Đặng Thế Phong nằm trong đợt cấp
phép lưu hành đầu tiên này. Thực ra quần chúng đã đi phía trước pháp luật. Tết
1988, Nhà hát Tuổi Trẻ ở Hà Nội cho biểu diễn "Giọt mưa thu" trong một
chương trình "giới thiệu những nhạc phẩm đặc sắc trước va sau Cách Mạng
Tháng Tám." Ngày 15 tháng 7 1988, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã giúp cho Hội
Âm Nhạc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một "chương trình thể nghiệm giới
thiệu ca khúc trữ tình" với hai ca khúc Đặng Thế Phong tại Câu Lạc Bộ Thể
dục Thể thao Bến Nghé. Khán giả rất đón mừng chương trình vì "vé bán sạch
từ trước cả tuần."
Các nhà phê bình âm nhạc của chính phủ Việt Nam tìm
mọi cách giải thích ý nghĩa các bài ca xưa có vấn đề như các bài của Đặng Thế
Phong. Bởi vì nhạc Đặng Thế Phong xuất hiện trước các biến cố 1945, như vậy theo
họ nó phản ánh lên một xã hội Việt bị thực dân đô hộ. Theo lời ông Đào Trọng Từ
thì "Giọt mưa thu" biểu hiện những người có tính mơ mộng, nhạy cảm sống
trong một xã hội bế tắc. Nó gợi ra nỗi đau đớn của một thế hệ phụ nữ khóc trong
sự phiền muộn của một nước nô lệ. Còn Nguyễn Viên thì "Con thuyền không bến
… lênh đênh chỉ biết trôi theo dòng đời lạc lõng, không có lối thoát, chỉ có thở
than…" Trương Quang Lục cũng thừa nhận rằng những ca khúc của "dòng
lãng mạn" thời xưa "đã đạt một giá trị nghệ thuật nhất định"
nhưng bị hạn chế về mặt "nhân sinh quan do điều kiện lịch sử cụ thể khi
chúng ra đời."
Năm 2000 Viện Âm Nhạc xuất bản một tác phẩm 1000
trang với chủ đề Âm nhạc mới Việt Nam: Tiến trình và thành tựu. Các tác giả của
quyển này khen Đặng Thế Phong về sự nhạy cảm "trong việc diễn đạt nỗi buồn
tê tái." Nhưng đây chỉ là "nỗi bơ vơ của một tầng lớp trung
gian" là một thành phần xã hội "mất phương hướng trong cái biển cả của
những xáo động lịch sử, đặc biệt là sau cơn khủng bố trắng những năm
1931-1935." Đặng Thế Phong có phụ thuộc về "tầng lớp trung gian"
không? Điều đó khó xác nhận thế nào. Nếu sống lâu Đặng Thế Phong theo cách mạng,
làm công chức văn hóa cho nhà nước không? Hay di cư vào Nam, xin tỵ nạn ở Mỹ?
Ai mà biết được. Nhưng lịch sử Việt Nam đòi hỏi mỗi người phải chọn đúng một
phương hướng. Các đứa con tinh thần của ông cũng bị biển cả đấm thùm thụp,
nhưng rốt cục được vượt biên, vượt thời gian và sống sốt.
Các bài viết về cuộc đời và tình nhân Đặng Thế Phong
bắt đầu xuất hiện trên các tờ báo Việt vài năm sau khi các bài hát của ông được
cấp phép hát lại. Năm 1991 báo Nhân Dân đăng bài "Đặng Thế Phong và người
tình chung thủy" tựa vào một cuộc phỏng vấn em gái út của nhạc sĩ. Lúc bấy
giờ bà Đặng Kim Thanh 64 tuổi nhắc đến việc xảy ra 50 năm trước. Điều đáng tiếc
khi mới đến lúc mà tác giả mệnh bạc thì các kỷ niệm đã rất xa rồi.
Đặng Thế Phong được sinh 14 tháng 4 1918. Ông tiêu
biểu cho các nghệ sĩ nghèo không được đánh giá cao và hưởng lợi lộc khi không
còn sống. Một điều đáng tiếc nữa phải đợi đến thế kỷ 21 để Việt nam mới có luật
vững chắc bảo vệ quyền tác giả âm nhạc. Theo Công Ước Berne thì bản quyền của một
tác phẩm chỉ được đem thi hành đến 50 năm sau khi tác giả mất. Như vậy từ năm
1992 nhạc của Đặng Thế Phong đã vào phạm vi công cộng. Khi còn sống thì hình
như Đặng Thế Phong không bị ai bóc lột mà chỉ có việc là ông sống và chết trước
khi thời cơ ông đến. Dù sao thì các tác phẩm của ông vẫn rất gần gũi với các người
yêu nhạc Việt.
*
Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng
tác âm nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết
gửi BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, mở đầu loạt bài sẽ đăng về các
gương mặt nhạc sĩ Việt Nam.
No comments:
Post a Comment