Ngô Thị
Kim Cúc
27
THÁNG MỘT, 2017
.
Ảnh tác giả
.
“Mỗi
người làm việc bằng hai/ để cho chủ nhiệm mua đài mua xe/ Mỗi người làm việc bằng
ba/ để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân…”.
Lần
đầu tiên ra miền bắc vào giữa năm 1976, nghe văn học dân gian châm biếm thói
tham-ô-kiểu-nông-thôn-nghèo, tôi đã phì cười nhưng rồi nhanh chóng ngậm miệng lại
và bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc. Thật thảm thương khi kết quả của việc
xà xẻo, cắt xén, chấm mút của công, rốt cuộc cũng chỉ đủ để ông chủ nhiệm hợp
tác xã nông nghiệp mua được cái đài (tên gọi của radio thời đó) hay cái xe
(cũng chỉ là xe đạp). Ghê gớm hơn chút nữa là xây được cái sân, cái nhà (đúng
chuẩn “nhà ngói sân gạch” của nông thôn miền bắc). Và tất cả những gì bòn rút
được của dân cứ phơi chần dần ra trước mắt mọi người, ai cũng nhìn thấy, nên nếu
bị tóm lấy gáy mà vặn vẹo, tra hỏi xem tiền ấy từ đâu ra, chắc chắn khó có câu
trả lời suôn sẻ. Không còn đường để chối cãi. Và sẽ phải trả giá.
Bởi
vì thời ấy- thời chiến, tất cả phải dành cho tiền tuyến Miền Nam, từ con người
cho tới của cải (“quân không thiếu một người, thóc không thiếu một cân”), những
gì còn sót lại ở nông thôn hầu như chẳng đáng là bao, nên của cải tham ô được
cũng chỉ có thể tới chừng đó là hết.
Nó
hoàn toàn khác với ngày nay, sau khi xu thế phát triển xã hội buộc phải thay đổi
theo kinh tế thị trường, cho dù vẫn luôn cần một tính từ đi kèm: kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Người
ta bắt đầu làm quen với những cuộc gặp gỡ để ký kết các hợp đồng kinh tế, làm
quen với sự thương lượng cùng đối tác để sau đó đặt bút ký những chữ ký rất có
giá trị về mặt tiền bạc, hàng hóa. Những bữa tiệc ăn-trả-bữa của thời mới tập sự
làm kinh tế nườm nượp thịt thà, ngập ngụa bia rượu. Nhiều thực khách phải vào
phòng vệ sinh móc họng ụa ra để có thể tiếp tục ngồi lại trong những tiệc tùng
dầm dề tăng một tăng hai tăng ba ấy… Nhưng đó mới chỉ là bước đầu học cách kiếm
tiền và tập tò ăn chơi, chẳng là gì so với những bước nhảy vọt trong đẳng cấp
sau này.
Sự
hội nhập với thế giới đã đồng thời nâng cao trình độ của những tiệc tùng kinh tế.
Không còn kiểu nông dân quê mùa chém to kho mặn, rượu quý và các món cao cấp
thượng hạng nhập từ nước ngoài đã trở nên quen thuộc. Người ta tập cho mình những
thụ hưởng sang trọng của bậc phú gia, đại gia, với xe siêu hạng, đồ dùng siêu hạng,
nhà cửa choáng lộn nhức mắt, chẳng hề kém cạnh so với những triệu phú tỉ phú
các nước Âu Mỹ…
“Luật
chơi” đã trở thành bài bản, những con số phần trăm cũng thành chuyện thường
ngày. Quá khứ đài-xe-sân-nhà tội nghiệp đã trôi tuột biến mất vào những thế kỷ
xa xôi mông muội tận đẩu đâu… Giờ đây, những dự án tỉ đô, trăm triệu đô đã làm
thay đổi cả nhũng gì tưởng chừng không bao giờ có thể…
***
Chỉ
thời gian ngắn sau khi tiếng súng chấm dứt vào tháng Tư năm 1975, cha tôi háo hức
đưa các con về quê Phú Bông- Gò Nổi sau gần mười năm bị bom đạn ngăn cắt bởi
chiến tranh lan rộng. Cây cầu trên khúc sông Thu Bồn chảy ngang quê tôi đã sụp
đổ từ lâu, chúng tôi phải qua đò và sau đó phải đi bộ rất xa, hỏi đường rất nhiều
lần để cuối cùng về tới chỗ mà cha tôi cho rằng đó là vườn cũ nền cũ ngôi nhà của
ông bà nội. Tôi nhìn và thấy chỉ có cỏ tranh cao lút đầu bên cạnh chi chít hố
bom, cái này chồng lên cái kia, nhiều không kể xiết. Mặt đất không còn chỗ nào
lành lặn vì đây là vùng tự do oanh kích. Trên mặt cha tôi lộ rõ vẻ thất vọng
đau khổ không cách gì che giấu. Suốt mấy mươi năm sống ở Đà Nẵng, ông chỉ tâm
tâm niệm niệm tới ngày hòa bình sẽ mang tất cả con cái về lại quê cũ, nơi mà
gia đình cả hai bên nội ngoại từng có cuộc sống sung túc nhờ nghề tằm tơ dệt lụa.
Giấc
mơ ấy đã bị thực tế sổ toẹt một cách phũ phàng. Bên dưới lớp cỏ dày và vô vàn
những hố bom chắc chắn còn rất nhiều bom mìn chưa nổ, và không biết đến bao giờ
mới có thể phục sinh dưới bàn tay con người.
Sau
lần đầu tiên đó, tôi còn quay lại Gò Nổi nhiều lần nữa để viết bài, và tôi biết
rằng ở vùng đất được gọi tên là “cối xay thịt” này, chiến tranh đã giết sạch tất
cả nam thanh niên nhiều lứa. Cứ thế hệ này lớn lên cầm súng và sau đó bị chết,
thế hệ sau lớn lên, lại tiếp tục cầm súng và lại hy sinh. Cứ như vậy, trắng cả
làng. Đến nỗi sau hòa bình xã không có đủ người để làm việc, phải xin bổ sung
người từ các nơi khác. Cái giá để có được hòa bình là giá máu, quá nhiều máu.
Và
người dân Việt xứng đáng được sống bình yên hạnh phúc với những gì họ đã phải
hy sinh để có hòa bình.
***
Tôi
còn nhớ, khi công trình đại thủy nông Phú Ninh được khởi công và tiến hành, người
dân Quảng Nam- Đà Nẵng đã vui sướng đến ngần nào. Suốt thời gian dài, tiến độ
trên công trường luôn là điều mà người ta tìm đọc trên mặt báo. Mỗi công việc
dù nhỏ nhất đều được mọi người thực hiện bằng tất cả tầm lòng và hình như còn
có chút gì đó thiêng liêng. Một mảnh gỗ nhỏ, một xác lá rụng cũng không được
phép lẫn vào cát xây dựng, cát phải sạch đến mức tối đa để tránh nguy cơ bê
tông có thể bị rò rỉ nước sau này.
Và
quả thật Phú Ninh đã làm thay đổi cả đời sống hàng ngày lẫn tập quán làm nông của
dân Quảng, một Phú Ninh luôn tưới tiêu đúng quy trình, đúng trách nhiệm. Những
con kênh bê tông dẫn nước qua vùng cát khô hạn của huyện Thăng Bình cũng đồng
thời là đường để chạy xe cho người lớn, đường đi học của trẻ con. Nước Phú Ninh
đã thay đổi đồng ruộng Quảng Nam, đem lại những vụ mùa với sản lượng mà trước
đó chưa bao giờ có được.
Có
lẽ Phú Ninh là thành tựu tiêu biểu nhất của Quảng Nam Đà Nẵng trong thời kỳ đầu
làm kinh tế. Đó không chỉ là kết quả từ sản lượng mà còn là giá trị của lòng
tin khi người dân cảm thấy mình thật sự là đối tượng được phục vụ.
Tôi
không biết trên cả nước và cho tới hiện nay, có bao nhiêu công trình kinh tế được
người dân tin yêu như dân Quảng với Phú Ninh…
***
Bởi
vì chỉ mới đây, mùa hè năm 2016, khi nhìn thấy gương mặt tuyệt vọng của những
ngư dân cầm trên tay những xác cá, cầu gai, san hô… bị chết bởi chất thải độc từ
nhà máy Formosa Hà Tĩnh, trong người tôi như có luồng nước đá chảy qua, lạnh ngắt.
Đáy biển đã thật sự bị hủy diệt, và không biết để phục hồi như trước thì cần mấy
mươi năm. Ngư dân không thể đánh bắt và đem bán thứ cá đã bị nhiễm độc, đành phải
bỏ nghề, bỏ biển. Thông tin người dân lũ lượt đi thi tiếng Hàn để xuất khẩu lao
động nghe như tiếng khóc than của biển. Đang yên ổn làm nghề trên quê hương bên
cạnh cha mẹ vợ con, bỗng chốc ngư dân các tỉnh miển trung bị rứt khỏi gia đình
và mảnh đất chôn nhau cắt rốn, trở thành kẻ làm thuê khốn khổ trên xứ người,
tha phương cầu thực.
Trên
đất Quảng Nam, những trận động đất dồn dập từ thủy điện Sông Tranh liên tục xuất
hiện cả năm qua trên mặt báo, và vào cuối mùa mưa lũ vừa rồi, người dân còn được
tặng thêm nước xả từ hồ thủy điện. Những thủy điện làm theo kiểu Sông Tranh
cũng dìm sâu người dân các tỉnh miền trung khác dưới biển nước, với cùng một lý
do: xả lũ để bảo vệ hồ chứa. Tài sản, nhà cửa, tính mạng người dân đã bị đặt thấp
hơn nhiều so với quyền lợi của người chủ công trình.
Chúng
ta vẫn biết chiến tranh là một trong những mối nguy đáng sợ nhất trong đời sống
con người. Nhưng liệu còn thứ gì có thể đáng sợ hơn cả chiến tranh? Và người
dân Việt, sau cái giá rất đắt để có hòa bình, liệu cuộc sống của họ hiện nay có
thể được coi là đã yên bình, hạnh phúc?
———————————————–
Bài
này đã in trên báo Lao Động Miền Trung & Tây Nguyên số Tết Đinh Dậu 2017
No comments:
Post a Comment