Ngô Nhân Dụng
December 16, 2016
Lãi suất ở Mỹ tăng, sau phiên họp của Ngân Hàng
Trung Ương (tên là Quỹ Dự Trữ Liên Bang – Fed) ngày 14 tháng 12, 2016. Sau cuộc
khủng hoảng tín dụng năm 2007 khiến kinh tế Mỹ rớt vào cuộc “đại suy thoái” năm
2008, đây là lần thứ nhì Fed nâng lãi suất căn bản thêm 0.25%; lần trước cách
đây đúng một năm. Quyết định tăng lãi suất này đã được thị trường thế giới tiên
liệu từ ba tháng nay, vì ai cũng thấy kinh tế Mỹ đã vững vàng hơn, bắt đầu phải
lo áp lực lạm phát.
Bà Janet Yellen, chủ tịch Quỹ Dự Trữ Liên Bang, đã
giải thích rằng quyết định tăng lãi suất này phản ảnh lòng tin vào nền kinh tế
Mỹ đã tiến và sẽ tiếp tục tiến hơn trong năm tới. Một dấu hiệu kinh tế phát triển
tốt là tỷ lệ thất nghiệp đã xuống thấp nhất, từ hơn 10% vào năm 2008, nay chỉ
còn 4.6% trong tháng 11 năm 2016. Fed tiên đoán rằng đến cuối năm 2017 tỷ lệ thất
nghiệp sẽ xuống nữa, tới 4.5%, là một mức rất khó hạ thấp hơn vì trong nước lúc
nào cũng có một số người lao động đang thay đổi công việc.
Chính sách trục xuất các di dân bất hợp pháp của
chính quyền Donald Trump sắp tới sẽ khiến thị trường lao động “căng thẳng” hơn
vì bớt số người sẵn sàng làm việc với đồng lương thấp. Trong tình trạng đó, các
xí nghiệp sẽ phải tăng lương cho nhân viên và công nhân để thu hút người lao động.
Ðó sẽ là một nguyên nhân chính khiến lạm phát tăng lên, vì khi các nhà sản xuất
tăng lương họ cũng phải tăng giá sản phẩm hoặc dịch vụ để bù lại. Hơn nữa, số
người làm việc đông hơn với lương cao hơn sẽ gia tăng mức tiêu thụ trên toàn quốc,
đẩy giá cả lên.
Thị trường lao động ngày càng mạnh vì kinh tế Mỹ
tăng trưởng liên tục từ năm 2009 đến nay khiến mọi người đã tiên liệu Ngân Hàng
Trung Ương Mỹ sẽ phải tăng lãi suất. Kể từ năm 2009 đến cuối năm 2016, số người
làm việc ngoài lãnh vực canh nông đã tăng từ 136 triệu lên 145 triệu, tạo thêm
gần 9 triệu công việc làm. Trong cùng thời gian đó, Tổng Sản Lượng Nội Ðịa
(GDP) đã tăng 20%, từ năm 2009 (14,418 tỷ US$) đến năm 2015 (17,348 tỷ US$).
Cũng vậy, lợi tức của một gia đình bậc trung (median household income) tăng
25%, từ hơn 50 ngàn lên 62 ngàn đô la. Số hàng hóa nước Mỹ xuất cảng đã tăng
35%, Chỉ số Dow Jones từ hơn 9,000 đã tăng gấp đôi, lên tới hơn 19,800 trong tuần
này. Trước tiến triển kinh tế như vậy, tất cả đều đón trước Fed sẽ tăng lãi suất.
Nhưng vẫn có một bất ngờ: Fed cho biết trong năm 2017 có thể sẽ tăng lãi suất
thêm ba lần nữa!
Khi thị trường chờ đợi lãi suất sẽ tăng, đồng đô la
Mỹ sẽ còn tăng giá đối với tất cả các đồng tiền khác trên thế giới; vì những
“người có sẵn tiền” sẽ đem đổi lấy đô la để cho nước Mỹ, người Mỹ vay! Kể từ
năm 2011, đô la Mỹ đã lên giá thêm 40%, nay sẽ còn tăng thêm nữa!
Ðồng nguyên của Trung Quốc chịu hậu quả nặng nề nhất,
sẽ tiếp tục đi xuống mặc dù chính quyền Trung Cộng vẫn cố giữ giá bằng nhiều
cách. Ðồng nguyên hiện xuống mức thấp nhất kể từ năm 2008 đến nay.
Trái với những lời tố cáo Bắc Kinh “âm mưu hạ giá đồng
tiền,” trong năm qua Bắc Kinh đã lấy hàng tỷ Mỹ kim dự trữ của họ ra bán, đổi lấy
đồng nguyên, với mục đích giữ vững giá trị đồng tiền của chính họ. Quỹ dự trữ
ngoại tệ của Trung Cộng đã giảm từ 4,000 tỷ Mỹ kim xuống chỉ còn 3,050 tỷ. Một
hệ quả là Trung Quốc đã mất địa vị là “chủ nợ lớn nhất” của nước Mỹ! Báo cáo của
Ngân Khố Mỹ cho biết vào tháng 10 vừa qua Nhật Bản mới là nước cho chính phủ Mỹ
vay nợ nhiều nhất, với số nợ tổng cộng 1,130 tỷ Mỹ kim, số nợ Trung Quốc chỉ
còn 1,120 tỷ. Ngoài việc bán đô la lấy tiền của mình, Trung Cộng còn đang ngăn
chặn không cho các ngân hàng và xí nghiệp của họ đem tiền ra nước ngoài dù để đầu
tư, vì mỗi lần chuyển ngân như vậy đều phải đổi đồng nguyên lấy Mỹ kim.
Chính vì đồng đô la Mỹ lên khiến cho đồng nguyên xuống
giá. Hiện tượng này cũng diễn ra với đồng tiền của hầu hết các nước khác. Từ
năm 2013 đến nay đồng nguyên chỉ mất giá 10.75%, trong khi đồng yen của Nhật Bản
đã mất 30%, đồng đô la Úc mất 40% giá trị. Không thấy nhà chính trị Mỹ nào tố
cáo chính phủ Nhật Bản và Úc âm mưu hạ giá đồng tiền để thủ lợi! Nhưng từ đầu
tháng 11 đến giữa tháng 12, thị trường chứng khoán Tokyo đã lên 16% trước viễn
tượng đồng Mỹ kim lên giá. Nhật Bản là một nước hưởng lợi nhiều nhất, còn Trung
Quốc thì ngược lại.
Hành động tăng lãi suất của bà Janet Yellen làm cả
thế giới phải toan tính cách đối phó, còn khi Nhân Dân Ngân Hàng ở Bắc Kinh
tăng hay giảm lãi suất thì không gây một chấn động nào đáng kể. Hiện tượng này
cho thấy ảnh hưởng quá lớn của kinh tế Mỹ, vì vai trò “thống ngự” của đồng đô
la trong hệ thống tài chánh thế giới. Tiền tệ của một số quốc gia trên toàn cầu
được ấn định dựa trên hối suất với Mỹ kim, bao gồm 60% dân số và 60% tổng sản
lượng cả thế giới. Tình trạng đó khiến cho khi lãi suất ở Mỹ tăng khiến đô la
lên giá thì rất nhiều nước lo lắng, đặc biệt là các nước còn đang phát triển.
Trong tám năm qua, khi lãi suất ở Mỹ được hạ thấp để
kích thích kinh tế, thấp đến mức từ 0 đến 0.25% một năm, rất nhiều nước đang mở
mang đã đi vay nợ bằng đô la Mỹ để lấy lãi suất rẻ. Tới năm 2015, tổng số nợ khắp
thế giới, ở ngoài nước Mỹ nhưng vay bằng Mỹ kim, đã lên tới 10 ngàn tỷ đô la, một
phần ba là do các nước kinh tế còn đang lên. Ðô la tăng giá, khi các con nợ này
cần trả tiền lãi và tiền vốn thì họ phải đi mua đô la để trả. Nhưng lại mua đô
la với một giá đắt hơn so với lúc đi vay. Nếu đô la tăng giá 10% thì món nợ coi
như phải chịu thêm 10% tiền lãi!
Nhưng đó chỉ là mối thiệt hại trực tiếp vì đồng đô
la lên giá. Các nước đang phát triển còn chịu những ảnh hưởng gián tiếp, khi đi
vay nợ bằng đô la Mỹ. Những đồng đô la vay được không phải đồng nào cũng được
đem đầu tư sinh lợi, mà có khi nằm nghỉ trong hệ thống ngân hàng. Ngân hàng có
tiền lại đem cho vay nữa, gia tăng số xí nghiệp vay nợ bằng đô la. Lúc đô la
tăng giá, những con nợ mới này cũng trở thành nạn nhân. Ba nước có số nợ vay bằng
đô la nhiều nhất là Brazil, Chile và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng tiền của cả ba nước đều
xuống giá mạnh từ mấy tháng nay trong khi đô la lên giá. Malaysia cũng vậy. Tuy
cán cân chi phó của Malaysia thặng dư, tức là tiền vô cao hơn tiền ra, nhưng
hơn một nửa số trái khoán (giấy vay nợ) của nước này đã bán cho người ngoại quốc.
Trong tháng 12, đi vay bằng đô la khó hơn, đồng ringgit của Malaysia đã mất giá
trên 5%.
Bắc Kinh đang lo lắng vì còn nhớ kinh nghiệm tháng
12 năm 2015, khi Ngân Hàng Trung Ương Mỹ tăng lãi suất lần đầu sau 9 năm. Ðồng
nguyên xuống giá ngay, quỹ dự trữ ngoại tệ hụt mất 108 tỷ đô la trong một
tháng, sau đó thị trường chứng khoán sụt dần. Ðiều đáng lo lắng nhất năm nay là
rất nhiều người có tiền ở nước Tàu đang chờ chực chuyển tiền ra nước ngoài,
nghĩa là họ sẽ đi mua đô la Mỹ! Phương cách giản dị nhất của chính quyền là
ngăn chặn không cho đem tiền ra ngoại quốc.
Ðồng đô la lên giá sẽ khiến quỹ dự trữ ngoại tệ của
nước Tàu giảm bớt, giá trị đồng nguyên không đứng vững trong lúc đảng Cộng Sản
vẫn nuôi tham vọng biến đồng nguyên thành một thứ tiền quốc tế, như vai trò của
đồng đô la, yen và euro. Tất cả sẽ khiến cho các dự án lớn để gây ảnh hưởng
trên kinh tế, tài chánh thế giới sẽ ngưng trệ, như Ngân Hàng Châu AÔ Phát Triển
Hạ Tầng, dự án Nhất Ðái, Nhất Lộ và dự án Hợp Tác Kinh Tế Vùng Toàn Diện (RCEP)
mà Bắc Kinh muốn mời các nước đã ký thỏa ước TPP tham dự sau khi ông Donald
Trump dọa sẽ xé bỏ TPP.
Tình trạng đồng đô la đè nặng trên cả thế giới đã được
diễn tả rõ nhất trong lời tuyên bố của ông John Connally, bộ trưởng Tài Chánh Mỹ
thời Tổng Thống Nixon. Năm 1970, kinh tế Mỹ suy thoái, GDP giảm 1%, lạm phát
lên 6%, cán cân chi phó khiếm hụt. Tháng 8 năm 1971, ông Nixon đã xóa bỏ liên hệ
giữa đô la Mỹ và vàng khiến giá trị đồng Mỹ kim giảm 20%; ông John Connally ra
lệnh “kiểm soát giá cả và lương bổng” trong 90 ngày và đánh thuế thêm 10% trên
các món hàng nhập cảng. Báo chí Nhật lúc đó gọi ông là Bão Connally. Trước mối
đe dọa cơn khủng hoảng toàn cầu vì hối suất tất cả các nước đều thả nổi, các cường
quốc kinh tế đồng ý họp lại ở Rome, thủ đô Ý vào tháng 11 năm 1971 để tìm cách
giải quyết. Trước mặt bộ trưởng tài chánh của 10 quốc gia, ông Connally nói:
“Ðô la là tiền của chúng tôi, nhưng là vấn đề của quý vị!” (The dollar is our
currency, but your problem). Ba tháng sau, các bộ trưởng tài chánh đó lại gặp
nhau ở Washington để thỏa thuận về một hệ thống tiền tệ quốc tế mới; trong đó đồng
đô la Mỹ vẫn đóng vai quan trọng nhất. Tình trạng này đến nay vẫn không thay đổi:
Ðô la là tiền nước Mỹ nhưng vẫn là vấn đề của cả thế giới.
Vào nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Ronald Reagan, kinh
tế Mỹ đã gặp khó khăn khi đồng đô la lên giá, hàng Mỹ khó xuất cảng vì giá tăng
đến 50% so với đồng tiền các nước lớn, cán cân thương mại khiếm hụt trong lúc lạm
phát gia tăng khiến Ngân Hàng Trung Ương phải tăng lãi suất rất cao, đô la lại
càng tăng giá trị. Trong tình trạng đó, bộ trưởng tài chánh các nước Pháp, Tây
Ðức, Nhật Bản, và Anh Quốc phải họp với Bộ Trưởng Mỹ James A. Baker III để thỏa
hiệp cùng can thiệp vào thị trường tiền tệ, bỏ ra 10 tỷ đô la đem bán để hạ thấp
giá đồng tiền Mỹ. Cuộc họp tại khách sạn Plaza Hotel ở thành phố New York đã
giúp đô la giảm giá 50% trong hai năm sau đó, hàng xuất cảng Mỹ tăng lên và cán
cân mậu dịch gần trở lại thăng bằng.
Nếu đô la Mỹ tiếp tục tăng giá cho tới năm 2018 thì
tình trạng có thể sẽ diễn ra giống như năm 1985 hay không? Ðồng đô la lên giá sẽ
khiến hàng Mỹ xuất cảng khó cạnh tranh hơn, cán cân mậu dịch sẽ khiếm hụt nặng
hơn. Tổng thống tân cử Donald Trump đang hô hào chống hàng nhập cảng từ khắp thế
giới, nhất là từ Trung Quốc, Mexico, Canada, ông có thể gây ra một cuộc chiến
tranh mậu dịch. Chương trình cắt giảm thuế và tăng ngân sách chi tiêu sẽ đưa tỷ
lệ lạm phát lên cao khiến lãi suất phải tăng nữa, và đồng giá đô la càng lên.
Trước viễn ảnh đó, khó mời được các quốc gia khác cộng
tác như năm 1985. Hiện nay chính các nước Châu Âu và Nhật Bản đang lo cố thúc đẩy
cho kinh tế phát triển và đang lo tỷ lệ lạm phát ở nước họ còn quá thấp; không
nước nào muốn đồng tiền của họ lên giá. Cho nên khó lòng kêu gọi họ đồng ý với
một Thỏa Hiệp Plaza mới!
No comments:
Post a Comment