Trefor
Moss - The Wall Street
Journal
Biên dịch: Dương
Huy Quang
| Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 23/11/2016
.
Tổng thống Philippines
Rodrigo Duterte
.
Bị
thôi thúc bởi nỗi bất bình về quá khứ thuộc địa và cảm giác bị coi thường, Tổng
thống Philippines đã đe dọa hủy hoại một mối quan hệ sống còn của Mỹ tại Châu Á.
Trong
nỗ lực giải tỏa căng thẳng với Tổng thống Mỹ Barack Obama, Tổng thống
Philippines Rodrigo Duterte đã tiến về phía ông Obama khi cả hai người cùng dự
bữa tối tại một hội nghị thượng đỉnh diễn ra tại Lào hồi tháng 7/2016. Hai ngày
trước đó, ông Duterte đã công khai lên tiếng chỉ trích tổng thống Mỹ.
Hành
động này càng khiến tình hình tệ hại. Theo một quan chức Philippines có mặt tại
cuộc gặp, ông Duterte không cảm thấy ông Obama đối xử với mình như một người
ngang hàng, bởi ông Obama nói các công việc tiếp sau cuộc gặp sẽ do nhân viên
Nhà Trắng đảm nhiệm, chứ ông sẽ không trực tiếp làm điều này. Ngày hôm sau, ông
Duterte đã tẩy chay một cuộc họp nhóm với ông Obama và các nhà lãnh đạo Đông
Nam Á.
Ông
Duterte “trông đợi nhiều sự tôn trọng hơn từ Obama,” bà Jocellyn Duterte, em
gái ông Duterte, nói. Các quan chức Nhà Trắng nói họ không thể xác nhận những lời
lẽ được dùng tại cuộc trao đổi giữa hai người và cho biết cuộc giao tiếp có màn
bắt tay và vài câu bông đùa vui vẻ.
Sự
cố tại Lào chỉ là một sự kiện nhỏ trong mối oán giận suốt đời của ông Duterte đối
với Mỹ và điều mà ông coi là sự ngạo mạn của nước này đối với Philippines. Các
cuộc phỏng vấn với bạn bè, người thân và cấp dưới của ông Duterte đều cho thấy
điều này, và cảm giác bất bình đó sẽ đe dọa hủy hoại mối quan hệ sống còn này của
Mỹ tại Châu Á.
Nếu
còn ai cho là thái độ của Duterte (với Mỹ) còn chưa đủ rõ ràng, thì trong chuyến
thăm cấp nhà nước gần đây tới Trung Quốc, ông đã không ngại ngần huỵch toẹt mọi
điều. Hôm thứ 5, tại Đại lễ đường Nhân dân, trong một bài diễn văn về quan hệ
quân sự và kinh tế, Duterte tuyên bố thẳng: “Tại đây, tôi thông báo sự thoát ly
của tôi khỏi nước Mỹ.” Ông nói “Người Mỹ thường lớn tiếng, đôi khi đến mức om
sòm,” sau đó, Duterte bắt chước kiểu nói của người Mỹ mà ông gọi là “không được
điều chỉnh cho lịch sự.”
Sang
ngày Thứ sáu, Duterte nói với các phóng viên rằng, khi dùng từ “thoát ly”, ý
ông không phải là cắt đứt quan hệ với một đồng minh, mà là thiết lập một
chính sách ngoại giao không nhất thiết lúc nào cũng phải hợp ý Washington.
Điểm
qua cuộc đời vị tổng thống 71 tuổi này, cũng như cách thức nó ảnh hưởng đến tư
duy của ông, chúng ta có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi tại sao Washington
có thể sẽ không thể cứu vãn được mối quan hệ mà cho tới gần đây còn là một trong
những mối quan hệ đồng minh gần gũi nhất của nước này tại Châu Á.
Sự
cay đắng của ông Duterte được nuôi dưỡng từ thuở nhỏ, khi ông lớn lên trên một
hòn đảo mà tại đó dân địa phương đến giờ vẫn căm giận những hành động quân sự của
Mỹ hơn một thế kỷ trước cũng như giai đoạn cai trị thuộc địa sau đó. Sự cay đắng
này còn được chất chứa hơn bởi những sự biến xảy ra trong những năm sau của cuộc
đời mà ông coi là do chủ nghĩa đế quốc Mỹ.
Duterte
lớn lên đã là người hay sinh sự, có khi ông về nhà với vết thương sau một cuộc
tỉ thí bằng dao. Ông tạo nên tiếng tăm về chính trị trong vai trò một thị trưởng
đấu tranh chống tội phạm mà dưới sự lãnh đạo của ông, hàng trăm người đã thiệt
mạng dưới tay các biệt đội tử thần.
Cách
tiếp cận cứng rắn này đã thể hiện trong 100 ngày đầu tiên làm tổng thống của
Duterte, khi ông tuyên bố một cuộc tấn công nhắm vào những kẻ buôn bán ma túy.
Cảnh sát cho biết họ đã bắn chết khoảng 1.600 kẻ bị tình nghi buôn bán ma túy
và chống cự khi bị cảnh sát bắt giữ. Ngoài ra, trên 700 người đã thiệt mạng
trong các vụ hành quyết của các sát thủ và trên 1.000 trường hợp thiệt mạng
khác đang được điều tra để xem những người này có liên quan tới ma túy hay
không.
“Khi
bạn gây sự với ông ấy, ông ấy sẽ không bỏ qua, ông ấy sẽ xử bạn,” Jesus Dureza,
một bạn học cũ và hiện đang phục vụ trong nội các của ông Duterte nói. “Tính
cách đó ăn sâu trong ông ấy.”
Những
lời lẽ chống Mỹ của Duterte rộ lên tháng trước khi ông tuyên bố ông Obama không
nên lên lớp cho mình về nhân quyền. Trong một lời nhận xét không nhắm cụ thể
vào ai, ông đã buột ra một cụm từ tiếng địa phương (cụm từ này tạm dịch là “thằng
khốn”) mà một số người trong giới báo chí quốc tế cho là nhắm tới đương kim tổng
thống Mỹ. Ông Obama sau đó đã hủy kế hoạch gặp riêng với ông Duterte tại Lào. Và
hai ngày sau, tại đây, ông Duterte đã tiếp cận ông Obama.
Những
tuần gần đây, ông Duterte đã hủy các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và
Philippines. Ông cho biết có thể sẽ hủy bỏ một hiệp định quôc phòng ký năm 2014
giữa Mỹ và Philippines, một yếu tố chủ chốt trong chiến lược “xoay trục sang
Châu Á” của ông Obama cho phép lính Mỹ được triển khai tới các căn cứ tại
Philippines. Duterte còn dọa sẽ “cưỡi lên lưng hổ” và ném bỏ hiệp ước liên minh
đã 65 năm tuổi giữa 2 nước để chuyển ưu tiên sang các hiệp ước với Nga và Trung
Quốc.
Tại
Bắc Kinh, ông Duterte đã ký các thỏa thuận làm ăn với Chủ tịch Tập Cận Bình, và
nhà lãnh đạo Trung Quốc đã hứa sẽ cho Philippines vay trên 9 tỷ đôla để đổi lại
việc ông Duterte đồng ý tái khởi động các cuộc hội đàm song phương.
“Tôi đã tái định hướng bản thân theo dòng chảy ý thức hệ
của các bạn,”
ông Duterte phát biểu tại Bắc Kinh, “và có thể tôi sẽ tới Nga hội
đàm với tổng thống Putin và nói với ông ấy rằng có ba nước chúng ta – Trung Quốc,
Philippines và Nga – chống lại cả thế giới này.”
Ông
Duterte cũng đặt sang một bên các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc tại Biển
Đông, nơi Trung Quốc đang kiểm soát một bãi đá ngầm có tranh chấp tên là Bãi cạn
Scarborough, nằm cách bờ biển Philippines 125 hải lý (khoảng 201 km – ND) mà
Trung Quốc chiếm từ năm 2012.
Quan
hệ xấu đi (với Philippines) có thể khiến Mỹ có ít lựa chọn hơn trong việc mở rộng
sự hiện diện quân sự của mình tại Biển Đông — một vùng biển giàu tài nguyên và
có tầm quan trọng chiến lược mà một mình Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn
bộ và phần còn lại được nhiều nước Đông Nam Á tuyên bố chủ quyền — và cũng khiến
nước này khó khăn hơn trong việc tự khắc họa bản thân mình như một nhân tố đảm
bảo cho an ninh khu vực, điều mà Mỹ đã thực hiện kể từ sau Thế chiến II.
Trước
khi ông Duterte nói tới việc “thoát ly”, các quan chức quốc phòng Mỹ nói quan hệ
giữa hai nước vẫn tiếp tục bình thường. Sau đó, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại
giao Mỹ gọi những bình luận của ông Duterte là “mâu thuẫn đến mức không lý giải
được” với quan hệ bang giao song phương, mối quan hệ mà các quan chức, bao gồm
cả tổng thống (Mỹ) cho đến nay vẫn mô tả là “keo sơn”.
Đến
thời điểm này, các quan chức quốc phòng Philippines đã nói trước công chúng rằng
họ gần như mù mờ về các kế hoạch của ông Duterte. Tuy nhiên, họ cũng làm rõ rằng
ông Duterte dự định sẽ thiết lập một chính sách đối ngoại độc lập hơn so với
người tiền nhiệm là ông Benigno Aquino III.
Ông
Duterte đang “cố gắng giải phóng chúng ta” khỏi một “sự phụ thuộc trong xiềng
xích” vào nước Mỹ, Ngoại trưởng Phillipines, ông Perfecto Yasay, viết trong một
bài đăng trên Facebook trong tháng này. Ông còn viết người Phillipines bị đối xử
như là “những cậu em da nâu bé bỏng” của người Mỹ. Tuy nhiên ông Yasay không trả
lời các câu hỏi (của phóng viên về vấn đề này).
Văn
phòng của tổng thống Duterte cũng không phản hồi trước các yêu cầu bình luận về
bài viết này. Về mặt công khai, ông Duterte chê trách Mỹ vì nước này không ngăn
cản được những hành vi tước đoạt lãnh thổ (của Phillipines) do Trung Quốc thực
hiện và vì Mỹ từ chối đưa ra những đảm bảo rõ ràng về việc bảo vệ toàn bộ lãnh
thổ Philippines, bao gồm cả những lãnh thổ nằm ngoài khơi xa Biển Đông.
Chủ
nghĩa quốc gia của ông Duterte, thể hiện qua phản ứng giận dữ của ông trước những
cảnh cáo của ông Obama, khơi gợi lại tình cảm giận dữ của những người
Phillipines thiên tả về việc Mỹ chưa bao giờ chuộc lỗi vì đã xâm chiếm
Philippines năm 1898, cũng như đã dùng bạo lực để nô dịch cựu thuộc địa của Tây
Ban Nha này. Khi được độc lập năm 1946, Philippines lại rơi vào tay của thành
phần mà những chính trị gia thiên tả như ông Duterte coi là giới tinh túy mục
nát Manila do Washington dựng lên.
Những
vết sẹo của lịch sử
Là
con trai của thống đốc một tỉnh thuộc đảo Mindanao, ông Duterte lớn lên trong một
khu vực loạn lạc có quá nhiều duyên cớ để dân địa phương oán giận cả Manila lẫn
Washington. Là một khu vực gồm chủ yếu là người Hồi giáo trong một đất nước chủ
yếu theo Thiên chúa giáo, vùng này không bị người Tây Ban Nha chinh phục hoàn
toàn. Khi người Mỹ tới tiếp quản, các tiểu quốc Hồi giáo đã nổi dậy kháng cự
mãnh liệt.
Đối
với người dân Mindanao, quá khứ thực dân đã để lại những vết sẹo khó phai mờ
cùng lòng thù hận xuất phát từ sự đàn áp và khinh rẻ – bà Duterte, em gái tổng
thống Duterte, hiện sống tại Davao, thành phố lớn nhất của đảo Mindanao – nói.
Bà cho biết thêm người bà của hai anh em bà – vốn là người Hồi giáo – đã góp phần
làm ông Duterte tin rằng Washington đã phạm những tội ác khi chiếm đóng và thực
dân hóa Philippines.
Duterte
sinh ra đã là kẻ nổi loạn – đó là điều cả bạn bè và người thân của ông đều cho
biết. Ông Dureza nhớ lại, lúc nhỏ, Duterte bị đuổi khỏi trường dòng vì tội phun
mực xanh vào một linh mục. Khi vào trung học, Duterte tiếp tục là kẻ hay gây gổ.
“Ông ấy lúc nào cũng có cái tính sẵn sàng ẩu đả đấy”, ông Carlos Dominguez III,
người bạn thuở thiếu thời và giờ là bộ trưởng tài chính của ông Duterte, cho biết.
Có
đêm, Duterte loạng choạng bước vào nhà, tay giữ chặt vết thương do dao đâm, em
gái Duterte kể. Sau lần đó, ông còn bắn vào chân một bạn học cùng lớp để trả
thù cho một người bạn khác của mình, ông Dureza kể, và cho biết thêm người bạn
bị bắn sau đó đã bình phục còn ông Duterte không phải đối mặt với vòng lao lý.
Đến
khi vào học đại học tại Manila, ông Duterte học môn chính trị từ thầy Jose
Maria Sison, người sau đó đã thành lập Đảng Cộng sản Philippines và năm 1969 đã
phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Ông Sison, hiện đang sống lưu vong tại
Hà Lan, nói ông đã dạy cho Duterte những điều mà ông coi là những sự xấu xa của
chủ nghĩa đế quốc Mỹ cũng như mối quan hệ thối nát giữa những gia đình thương
gia và chính trị đã cai trị đất nước Philippines mà người chịu trận là dân thường
Philippines. Đây chính là hệ thống mà ông Duterte đã cam kết sẽ thủ tiêu.
Đảng
Cộng sản Philippines bị Bộ Ngoại giao Mỹ liệt vào danh sách những tổ chức khủng
bố nước ngoài. Ông Duterte đã tuyên bố ông có cảm tình với Đảng cộng sản
Philippines, nhưng bản thân ông chưa bao giờ gia nhập đảng này.
Quan
điểm về luật pháp và trật tự của Duterte định hình vào những năm 1980, khi các
băng nhóm tội phạm tấn công khủng bố thành phố Davao. Theo lời kể của ông Leo
Villareal, người cùng làm việc với ông Duterte tại tòa thị chính thành phố
Davao, bản thân Duterte có lần đã bị dí súng đe dọa và cướp, chính điều này đã
dẫn đến việc ông thề sẽ tiêu diệt băng nhóm là thủ phạm gây ra vụ này và cả các
băng nhóm khác.
Cho
tới giữa những năm 1980, ông Duterte làm việc ở cương vị công tố viên của thành
phố, và trước đó đã khiến cả gia đình ngạc nhiên khi tốt nghiệp được trường luật,
em gái ông kể. Lúc này, Philippines đã rơi sâu vào cảnh náo loạn dưới sự cai trị
của nhà độc tài cứng rắn được Mỹ hậu thuẫn, Ferdinand Marcos.
Sau
khi cuộc cách mạng “Sức mạnh nhân dân” lật đổ ông Marcos vào năm 1986, hệ thống
tư pháp hình sự cũng suy đồi khi những người Philippines lắm tiền nhiều của thường
hối lộ để thoát bị truy tố, còn những vụ khác thì kéo dài cả nhiều năm trời.
Ông Duterte nhận thấy thủ tục pháp lý là “điều có thể bị trì hoãn hoặc bóp
méo,” ông Dureza nói, và hành động trực tiếp là cách duy nhất để tạo ra sự thay
đổi.
Được
bầu làm thị trưởng thành phố năm 1988, ông Duterte đã áp dụng một cách tiếp cận
cứng rắn mà em gái ông, bà Duterte, nói là được xây dựng theo mô hình của cố
lãnh đạo rất kỷ luật của Singapore, ông Lý Quang Diệu. Duterte đã áp đặt lệnh
giới nghiêm cũng như ra lệnh hạn chế hút thuốc và uống rượu.
Ông
tuyên bố đàn áp những kẻ buôn bán ma túy, và các biệt đội sát thủ tại Davao đã
hành quyết hơn 1.400 người bị cáo buộc là tội phạm, theo Tổ chức giám sát nhân
quyền Human Rights Watch và các nhóm hoạt động về nhân quyền khác. Ông Duterte
đã nói trong các bài phát biểu và phỏng vấn rằng ông khuyến khích cảnh sát hành
động cứng rắn và bắn bỏ bất cứ kẻ nào chống cự khi bị bắt giữ, nhưng ông không bao
giờ đích thân ra lệnh giết ai cả.
‘Kẻ
trừng phạt’
Các
biện pháp của ông rất được lòng dân, và người dân địa phương đặt cho ông biệt
hiệu “Kẻ trừng phạt.” Ông nắm giữ chức thị trưởng trong 7 nhiệm kỳ cho tới năm
2016, trong đó có những lần ngắt quãng do vướng quy định về giới hạn nhiệm kỳ.
Suốt
quãng đường đời, ông Duterte đã nuôi dưỡng nỗi bất bình với cảm giác bị Mỹ xem
thường, trong đó có một sự cố xảy ra năm 2002 khi một người Mỹ đã trốn thoát khỏi
Philippines một cách bí ẩn sau khi xảy ra một vụ nổ bom tại một phòng khách sạn
tại thành phố Davao của ông. Ông Duterte nghi ngờ đây là âm mưu của CIA và nhiều
năm sau vẫn canh cánh nghĩ về điều này, bạn bè ông cho biết.
Đại
sứ quán Mỹ tại Manila nói: “Chúng tôi không có hành động gì khác ngoài việc
cung cấp các dịch vụ lãnh sự thông thường nhằm hỗ trợ một công dân Mỹ cần được
sơ tán để chăm sóc y tế. Khi thực hiện các dịch vụ này, chúng tôi đã tham vấn kỹ
lưỡng với giới chức Phlippines.”
Không
lâu sau sự cố năm 2002, Mỹ từ chối cấp thị thực cho ông Duterte và đối tác của
ông, một y tá, thì bị hủy thị thực, một người bạn đồng thời là cấp dưới của ông
Duterte và biết rõ chi tiết về vụ việc năm 2002 cho biết. Người này còn cho rằng
những động thái này của phía Mỹ xuất phát từ quan ngại của họ về những vụ giết người
không qua xét xử tại thành phố Davao. Đại sứ quán Mỹ tại Manila từ chối bình luận
về việc này.
Từ
năm 2002, theo yêu cầu của Manila, quân đội Mỹ đã hỗ trợ Philippines trong cuộc
chiến chống khủng bố tại nhiều nơi trên đảo Mindanao nhằm tiêu diệt các phần tử
ly khai Hồi giáo. Năm 2007, chính phủ (Philippines) gợi ý tổ chức tập trận
chung Mỹ-Philippines thường niên tại Davao.
Điều
này làm kích động ông Duterte, khiến ông thuyết phục hội đồng Thành phố Davao
thông qua nghị quyết ngăn cấm vĩnh viễn các lực lượng Hoa Kỳ không được tiến
hành tập trận tại khu vực này. “Tôi không
muốn có lính Mỹ trong thành phố của tôi”, truyền thông địa phương đưa tin
ông đã phát biểu như vậy trước hội đồng. “Vì
sự ngạo mạn và sự ưu việt giả tạo của họ, người Mỹ đã xâm lược Iraq để giết
Saddam Hussein nhưng kết cục lại tàn phá đất nước này. Tôi không muốn điều đó xảy
ra với chúng ta.”
Ông
Duterte lúc đầu đã từ chối lời khẩn nài của những người ủng hộ yêu cầu ông ra
tranh cử tổng thống. Đến cuối tháng 11 năm ngoái, ông thay đổi ý định bởi, theo
lời ông, ông không thể nuốt trôi ý nghĩ ứng viên Grace Poe, người lúc đó đang dẫn
đầu trong các cuộc thăm dò ý kiến trước bầu cử (và quan trọng là bà này cho tới
năm 2012 vẫn mang quốc tịch Mỹ) có thể sẽ thắng cử.
Thắng
lợi của Duterte trong cuộc bầu cử tháng 5 đến sau khi ông hứa sẽ quét sạch tội
phạm và phân bổ đều hơn nữa những lợi ích của một nền kinh tế đang tăng trưởng
nhanh. “Sắp tới sẽ có đổ máu,” ông dự báo trong một cuộc phỏng vấn với tờ Wall
Street Journal. “Nhiều người sẽ chết.”
Ông Duterte đang rất được lòng người dân trong nước, với 76% số người Philippines được hỏi trong một cuộc
thăm dò ý kiến do nhóm nghiên cứu Social Weather Stations tiến hành cho biết họ
thỏa mãn với công việc của ông.
Chiến
dịch tranh cử của Duterte chỉ chỉ trích Mỹ một cách nhẹ nhàng. Điều này thay đổi
khi ông nhậm chức và đối mặt với sự chỉ trích của nước ngoài.
Tại
cuộc họp thượng đỉnh ở Lào, ông đã công kích ông Obama vì những tội ác mà người
Mỹ bị cáo buộc đã gây ra một thế kỷ trước đây; tay ông giơ cao những bức ảnh
cho thấy người Philippines bị sát hại và mô tả họ chính là tổ tiên của ông, một
người có mặt tại cuộc gặp tiết lộ.
Một
số cấp dưới của ông Duterte cho biết họ bất ngờ với cơn giận dữ của ông, khi
ông không nói theo những bài diễn văn được chuẩn bị sẵn từ trước.
“Chúng tôi chỉ có thể
chuẩn bị các bài phát biểu,” một quan chức truyền thông Phlippines nói, “chứ chúng tôi không thể bắt tổng thống đọc
chúng được.”
Nguồn: Trefor Moss, “Behind
Duterte’s Break With the U.S., a Lifetime of Resentment”, Wall
Street Journal, 21/10/2016.
No comments:
Post a Comment