Nguyễn
Quang Duy
Gửi tới BBC từ
Melboune, Úc
25
tháng 10 2016
Nền
Cộng hòa non trẻ của Miền Nam Việt Nam đã chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975
nhưng giá trị tinh thần cộng hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Nhân
kỷ niệm 60 năm ngày bản Hiến pháp Đệ nhất Cộng hòa ra đời ngày 26-10-1956, xin
được ôn lại các giá trị có thể học hỏi từ tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa.
Hiến
pháp 1956
Ngày
26/10/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức thông báo kết quả Trưng cầu Dân
Ý truất phế Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng hòa, với Hiến ước Tạm thời làm cơ
sở pháp lý điều hành quốc gia.
Tháng
3/1956 một Quốc hội Lập hiến với 123 dân biểu được bầu. Đến tháng 7-1956 Quốc hội
bỏ phiếu thông qua bản Hiến pháp.
Ngày
26/10/1956 Hiến pháp được Quốc trưởng Ngô Đình Diệm ban hành.
Ông Ngô Đình Diệm, tổng
thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, xuất hiện tại một hội chợ ở Sài Gòn năm
1957. KEYSTONE/GETTY IMAGES
Tinh
thần lập hiến và dân chủ chưa đủ
Chiếu
điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc hội Lập hiến tự động trở thành Quốc
hội Lập pháp và Quốc trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt
Nam Cộng Hòa.
Lẽ
ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của
thể chế Cộng Hòa: "Chủ quyền thuộc về toàn dân".
Nói
cách khác Quốc hội Lập hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc hội Lập
pháp và vị tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Điều
3 "Tổng thống lãnh đạo Quốc dân" mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng
thống. Điều 89 "không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều
này (89) của Hiến pháp," nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ
tuyệt đối như Điều 2 "Chủ quyền thuộc về toàn dân".
Nói
cách khác, quyền lực tuyệt đối đã được Hiến pháp trao cho Tổng thống, do đó quyền
dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trong
khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa, lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của
địa phương phải được đặt lên hàng đầu thì Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào
trung ương mà không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng
không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.
Thiên
thứ 9 quy định việc sửa đổi Hiến pháp với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ
thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại
giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông
qua việc sửa đổi Hiến Pháp.
Vị Hoàng đế cuối cùng
của Việt Nam, Bảo Đại . AFP/GETTY IMAGES
Tam quyền phân nhiệm
Vai
trò và nhiệm vụ của Tổng thống, của Quốc hội và của thẩm phán được nêu rõ trong
các Thiên (Chương) ba, bốn và năm của bản Hiến pháp 1959.
Thiên
thứ sáu dành cho Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử
Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo hiến,
trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.
Thiên
thứ bảy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống là Chủ tịch có nhiệm vụ
trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.
Thiên
thứ tám về Viện Bảo Hiến nhằm phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật,
sắc luật, và quy tắc hành chánh.
Kinh tế tự do
Chương
hai nêu rõ việc Quốc gia (chính phủ) công nhận và bảo đảm tất cả các quyền tự
do cá nhân.
Đặc
biệt Điều 20: "Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu." Bên cạnh
việc khuếch trương kinh tế tự do chiếu theo điều 20 này chính phủ đã có những
chính sách vô cùng tích cực.
Lấy
thí dụ, chính phủ quy định các loại xe chuyên chở công cộng như xe taxi, xe
lam… cho nhập cảng xe mới và đem bán trả góp cho tài xế. Hai loại xe này nhanh
chóng trở thành những phương tiện di chuyển thông dụng nhất tại miền Nam.
Chương
trình Người cày có ruộng, chính phủ mua lại ruộng đất của điền chủ đem bán lại
cho tá điền qua phương cách trả góp.
Ngoài
một số hoạt động công ích xã hội, như điện, nước, hàng không,… thì sinh hoạt
kinh tế hoàn toàn tự do. Chính phủ không cạnh tranh với tư nhân và chỉ giữ vai
trò khuyết trương kinh tế và bảo đảm tư nhân cạnh tranh một cách công bằng và hợp
pháp.
Ngay
trong giáo dục Chương trình tư thục được chính phủ khuyến khích và nâng đỡ, nhờ
đó chia sẻ gánh nặng với chính phủ và đã đào tạo nhiều thế hệ thanh niên sẵn
sàng đóng góp cho quốc gia dân tộc.
Chính
phủ còn cho thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn... Nhiều
nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim,
nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than
Nông Sơn.
Các
quốc gia khác sau khi giành độc lập đều có khuynh hướng bảo vệ thị trường,
chính phủ trực tiếp làm kinh tế, quốc hữu hóa công xưởng, đề ra các chính sách
bảo vệ thị trường. Trong khi miền Nam lại theo kinh tế tự do nên kinh tế và kỹ
nghệ đã phát triển nhanh hơn các quốc gia trong vùng.
Hòa
giải tranh chấp lao công
Thiên
thứ bẩy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia mà hội viên gồm các nghiệp đoàn và các
ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và
các nhà kinh tế học.
Chính
phủ cũng đề ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ, giảm thiểu các
tranh chấp lao công, khiến cho xã hội hài hòa cùng nhau phát triển sản xuất
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.
Đây
là một điểm son của của xã hội miền Nam, nhờ đó cộng sản không thể lợi dụng biến
các cuộc biểu tình đình công đòi hỏi quyền lợi của giới thợ thuyền thành những
cuộc biểu tình chính trị.
Tinh
thần nhân bản, khai phóng và dân tộc
Trong
lời mở đầu Hiến pháp nêu rõ: "… dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu
tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là
xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện."
Nhìn
chung Hiến pháp 1956 xây dựng trên tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc,
tinh thần này được tiếp tục duy trì trong Hiến pháp 1967.
Hiến
pháp 1967
Sau
đảo chánh 1-11-1963, miền Nam bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng chính trị, các
chính phủ quân sự và dân sự liên tiếp được thành lập. Để có cơ sở pháp lý mỗi
chính phủ đã ban hành Hiến chương riêng.
Mãi
đến tháng 9/1966, một Quốc hội Lập hiến gồm 117 dân biểu được bầu ra. Một Ủy
ban Soạn thảo Hiến pháp được thành lập rút ưu khuyết điểm Hiến pháp 1956,
nghiên cứu và tham vấn nhiều bản hiến pháp các quốc gia khác, đặc biệt là Pháp,
Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tam
quyền phân lập, dân chủ và phân quyền
Ngày
01/04/1967 Hiến pháp 1967 được công bố, theo đó nguyên tắc kiểm soát và đối trọng
giữa các nhánh quyền lực được triệt để tuân thủ.
Lập
pháp (lưỡng viện), hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Vai trò và nhiệm vụ
của lập pháp, hành pháp và tư pháp được nêu rõ trong các Chương ba, bốn và năm
của bản Hiến pháp.
Để
tránh nguy cơ độc tài, Hiến pháp 1967 đặt ra chế độ Tổng thống Lưỡng viện, với
chức vụ Thủ tướng nhằm chia sẻ trách nhiệm và quyền hành của Tổng thống.
Đặc
biệt, trong Chương 5 về Hành pháp, Điều 70 nêu rõ: "Nguyên tắc địa phương
phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như:
xã, tỉnh, thị xã và thủ đô." Các Điều 65, 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 114 tạo
cơ sở pháp lý cho các các chính quyền địa phương.
Chương
6 về vai trò và nhiệm vụ của các Định chế Đặc biệt bao gồm Đặc biệt Pháp viện,
Giám sát Viện, Hội đồng Quân lực, Hội đồng Văn hóa Giáo dục, Hội đồng Kinh tế
Xã hội, Hội đồng các Sắc tộc.
Vai
trò chống tham nhũng của Giám sát Viện được nêu rõ: "Thanh tra, kiểm soát
và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm
về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền
lợi quốc gia."
Chính đảng
và đối lập
Chương
7 về Chính đảng và đối lập, nền Đệ nhị Cộng hòa khuyến khích việc tiến tới chế
độ lưỡng đảng đối lập như sau:
"Điều
99
1-
Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.
2-
Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật
định.
Điều
100 - Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.
Điều
101 - Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.
Điều
102- Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị."
Sinh
hoạt chính trị ở miền Nam cho đến 30-4-1975 đã chịu nhiều ảnh hưởng chủ trương
lưỡng đảng đối lập.
Để
tránh tình trạng quân đội cấu kết với các đảng phái chính trị, Chương 2, Điều
23 cấm "quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái".
Hữu
sản hóa nhân dân
Điểm
mạnh nhất của mô hình Đệ Nhất Cộng Hòa là phát triển kinh tế tự do. Điểm mạnh
này đã được tiếp tục trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa.
Về
công nghiệp, khu Kỹ nghệ Biên Hòa là một thành tựu xuất sắc phát triển vào bậc
nhất trong vùng Đông Nam Á. Mặc dù có chiến tranh, nhưng kinh tế và kỹ nghệ miền
Nam vượt hẳn các quốc gia trong vùng.
Điểm
đặc biệt của Hiến Pháp 1967 với Điều 19 phần 2 "Quốc gia chủ trương hữu sản
hóa nhân dân" và Điều 22 "Quốc gia chủ trương nâng cao đời sống nông
dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác." Sự thành công của
chánh sách Người cày có ruộng và Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp chính nhờ
các điều khoản nói trên.
Hiến
pháp nhân bản, khai phóng và dân tộc
Thừa
kế tinh thần Đệ nhất Cộng hòa, Hiến pháp 1967 lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc
làm quốc sách. Điều 11 ghi rất rõ: "Văn hóa giáo dục phải được đặt vào
hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản."
Điều
2 phần 2 nêu rõ tinh thần cộng hòa: "Quốc gia chủ trương sự bình đẳng giữa
các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu
số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc."
Các
điểm nổi bật
Nhìn
chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm
những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. So với các quốc gia
trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bậc
của Việt Nam Cộng Hòa.
Còn
so với thực tế Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật như:
1.
Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;
2.
Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân nhiệm, phân lập và phân quyền;
3.
Xây dựng thành công một nền văn hóa giáo dục, lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc
làm căn bản;
4.
Tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển;
5.
Báo chí tự do;
6.
Theo kinh tế thị trường tự do;
7.
Nhưng vẫn bảo đảm được công bằng xã hội và dân sinh như y tế đại chúng hay thực
hiện luật Người Cày Có Ruộng;
8.
Một xã hội dân sự phát triển.
Kinh
nghiệm thế giới cho thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc
gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ
không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ
vượt trội hơn nước người.
Tinh
thần lập hiến và thượng tôn pháp luật pháp thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó và
sẽ được học hỏi kế thừa khi Việt Nam có tự do dân chủ.
---------------------
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy từ Melbourne, Úc.
No comments:
Post a Comment