Luật sư Trần Quốc Thuận
25/09/2016
Thưa Hội đồng xét xử Tòa án cấp cao Hà Nội,
Tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận, Văn phòng Luật sư Hà Hải
& Cộng sự, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ 535 Nguyễn Tri
Phương, Phường 6, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, là Luật sư bào chữa cho ông
Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội
xét xử Sơ thẩm tại Bản án số 96/2016/HSST ngày 23 tháng 03 năm 2016 về tội “Lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân” theo khoản 2 Điều 258 Bộ Luật Hình sự (Cáo trạng
số 05/VKSTC. V2 ngày 06 tháng 02 năm 2015 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao) với
mức án Nguyễn Hữu Vinh năm năm tù, Nguyễn Thị Minh Thúy ba năm tù.
Trước khi trình bày nội dung bài bào chữa, tôi kiến
nghị Hội đồng xét xử một số việc như sau:
+ Hiện nay ngành tư pháp đang triển khai, tổ chức thực
hiện “Cải cách tư pháp” theo Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị. Năm 2015,
Quốc hội thông qua Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình Sự (BLHS), có
hiệu lực thi hành ngày 01/07/2016, tạm hoãn thi hành đến ngày 01/01/2017, trong
đó có phần quan trọng là thể chế “quyền con người” theo tinh thần Hiến
pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Vì vậy
phiên tòa hôm nay phải được diễn ra đúng theo tinh thần mới này, trong đó cơ
quan tố tụng phải tuân theo qui định của Hiến pháp 2013, Bộ luật Tố tụng Hình sự
2015. “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật” (khoản 1). “Người bị buộc tội phải được
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trong
trường hợp xét xử kín theo qui định của luật thì việc tuyên án phài được công
khai” (khoản 2). “Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền
được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi
phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” (khoản
5) (Điều 31, Hiến pháp 2013).
Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách tư
pháp, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt động tư pháp bởi vì thực chất
hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu ở hoạt động xét xử, ở bản án
hay quyết định của toà án, nếu án đúng thấy ngay kết quả, nếu án sai là hoạt động
không có hiệu quả. Các hoạt động khác của tiến trình tư pháp như điều tra, kiểm
sát, truy tố, v.v. nếu có sai phạm vẫn có thể khắc phục được và ít để lại hậu
quả nhưng nếu xét xử sai, hậu quả để lại rất lớn và đôi khi không thể nào khắc
phục được, khó phục hồi nguyên trạng như trước khi điều tra, kiểm sát, truy tố,
v.v. Đảng và Nhà nước ta cũng chủ trương trong giai đọan hiện nay cần nâng cao
vai trò của Luật sư hơn nữa trong tiến trình tham gia tố tụng, đảm bảo vị trí
cân bằng của Luật sư và bên công tố khi tham gia xét xử.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết chống oan sai. Lãnh đạo ngành Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an phát động
kế hoạch “chống oan sai” với các khâu đột phá, trong đó chú trọng phát huy vai
trò của Luật sư tranh tụng trước tòa, sự tham gia của Luật sư từ khâu khởi tố -
điều tra, công khai minh bạch. Kết quả bản án là kết quả tranh tụng diễn
ra tại phiên tòa.
“Khi
không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này (BLTTHS) qui định, thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” (Đoạn 2, Điều 13, Suy đoán vô tội - BLTTHS 2015)
Nhưng phiên tòa sơ thẩm ngày 23/03/2015 của Tòa án
Nhân dân Hà Nội do Thẩm phán Nguyễn Văn Phổ chủ tọa đã diễn ra không đúng theo
tinh thần trên, điều hành phiên tòa không tuân thủ theo qui định của pháp luật
về Tố tụng Hình sự, thậm chí ban hành bản án có nhiều nội dung trái pháp luật.
Ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy đã
kháng cáo toàn bộ bản án. Vì vậy, chúng tôi sẽ nêu lại toàn bộ những nội dung
mà Bản cáo trạng và Bản án đã nêu ra. Chúng tôi đề nghị phiên tòa Phúc thẩm của
Tòa án cấp cao Hà Nội hôm nay diễn ra đúng theo tinh thần và lời văn của Hiến
pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Thưa Hội đồng xét xử,
Tôi xin trình bày với Hội đồng xử án những dấu hiệu
vi phạm trong quá trinh Điều tra, Lập Cáo trạng, Xét xử Sơ thẩm của vụ án như
sau:
I. Điều tra bổ sung không tìm được chứng
cứ quan trọng đối với vụ án nhưng vẫn không thay đổi Cáo trạng truy tố, xét xử.
Theo qui định tại khoản 1, Điều 168 Bộ Luật Tố tụng
Hình sự 2003 quy định Viện kiểm sát ra quyết định để điều tra bổ sung
khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan
trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được.
Sau khi có Kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều
tra - Bộ Công an (ngày 30/10/2014) và Cáo trạng của VKSTC (ngày 27/11/2014). Viện
Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã 5 lần ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
Nhưng Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an sau 5 lần điều tra bổ sung vẫn
không trả lời được với lý do: “bị can không chịu khai báo”,“không có
điều kiện xác minh, làm rõ”, “không thể xác minh”, “chứng
cứ chỉ hỗ trợ”, “không cần thiết làm rõ chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, chứng cứ…” và gần như
không có thêm chứng cứ hợp pháp nào để chứng minh cho việc kết tội. Tuy vậy, Viện
Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn không thay đổi Cáo trạng.
1) Yêu
cầu điều tra bổ sung lần thứ nhất: Ngay khi nhận
Bản Kết luận điều tra số: 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của Cơ quan An ninh Điều tra
- Bộ Công an, ngày 27/11/2014 Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (Vụ 2) ra Quyết định
trả Hồ sơ để điều tra bổ sung số 18/QĐ-VKSTC-V2.
Sau gần hai tháng, ngày 26/01/2015 Cơ quan An ninh
Điều tra - Bộ Công an có Kết luận điều tra bổ sung số 03/KLĐTBS, trả lời như sau:
“Đối với yêu cầu “Điều tra, làm rõ
nguồn gốc, tác giả của 24 bài viết được đăng tải trên hai blog “Dân
Quyền” và “Chép Sử Việt” có tiêu đề như kết
luận điều tra đã nêu có được các bị can chỉnh sửa nội dung trước khi đăng tải
không? Xác định rõ tính chất, mức độ hành vi, vai trò của các tác giả và có biện
pháp xử lý đúng theo qui định của pháp luật”.
Cơ quan điều tra đã hỏi cung các bị can Nguyễn Hữu
Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy trong giai đoạn điều tra và hỏi lại trong giai đoạn
điều tra bổ sung, nhưng hai bị can không chịu khai báo, nên cơ quan điều tra
không có điều kiện xác minh, làm rõ: Ai là tác giả của 24 bài viết được đăng tải
trên hai blog “Dân Quyền” và “Chép Sử
Việt” có tiêu đề như kết luận điều tra đã nêu; các bị can có chỉnh
sửa nội dung trước khi đăng hay không”.
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an không chứng
minh được Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy “có chỉnh sửa nội dung trước
khi đăng” hay không thì không thể kết luận Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị
Minh Thúy là đồng sáng lập và “quản trị” hai blog “Dân Quyền” và“Chép
Sử Việt”. Đây là chứng cứ có ý nghĩa quyết định.
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an cũng không trả
lời được rõ nguồn gốc, tác giả của 24 bài viết được đăng tải trên hai
blog “Dân Quyền” và“Chép Sử Việt” có
tiêu đề như kết luận điều tra đã nêu và không “xác định rõ tính chất,
mức độ hành vi, vai trò của các tác giả và có biện pháp xử lý đúng theo qui định
của pháp luật”.
Nội dung 24 bài viết nếu bị kết tội, thì đây là loại
tội thuộc nhóm tội “cấu thành vật chất” có nghĩa là các nội dung trong
các bài này phải “gây hại” cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Không chứng minh được Nguyễn Hữu Vinh - Nguyễn Thị
Minh Thúy là người có hành vi “chỉnh sửa” tức là người thực hiện quyền “Quản trị”
hai blogs; không chứng minh được 24 bài đăng trên hai blogs đã “gây hại” cho bất
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, thì các hành vi này (nếu có) “chưa cấu
thành tội phạm”, chưa đủ yếu tố để truy tố. (Phải chăng người bị hại,
có thể có, là một trong những người mà 24 bài báo đã nêu tên: ông Hoàng Công
Tư, Thủ trưởng cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an, người chỉ huy điều tra vụ
án).
Nhưng trên thực tế, thì họ tên các tác giả của 24
bài viết ai cũng có thể biết. Thậm chí một số tác giả đã có thư gửi
Phiên tòa Sơ thẩm Tòa án Hà Nội xác định mình là tác giả và sẵn sàng có mặt tại
phiên xét xử Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy từ phiên tòa ngày
19/01/2016 bị hoãn và phiên tòa 23/03/2016 cụ thể:
Bài 3 “Chuyện kể năm 2000: Cuốn tiểu thuyết về
thân phận con người trong cái ác cộng sản”. Tác giả là Đại tá Phạm Đình Trọng.
Bài 5 “Ông trời con Hoàng Công Tư vs BBC Việt ngữ”
của ba nhà báo: Đoan Trang, Trịnh Hữu Long, Nguyễn Anh Tuấn.
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an nêu lý do “hai
bị can không chịu khai báo”. Nhưng cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát
và Toà án đã không thực hiện nhiệm vụ của mình theo qui định của luật:
“Điều
10. BLTTHS 2003. Xác định sự thật của vụ án
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng
mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội,
những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo.
Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội”.
Mặc dù cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an không “làm
rõ những chứng cứ xác định có tội”, không trả lời được các yêu
cầu của mình, nhưng ngày 06/02/2015, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối
cao vẫn ra Cáo trạng số 05/VKSTC-V2 với nội dung như Bản Kết luận điều
tra, quyết định truy tố ra trước Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội ông Nguyễn Hữu
Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo khoản 2 Điều 258, BLHS; ủy quyền cho Viện
Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
sơ thẩm”.
2) Yêu
cầu điều tra bổ sung lần thứ 2, 3 và 4 của VKSTC về Đảng tịch Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Hữu Vinh theo qui định
của Chỉ thị 15 ngày 07 tháng 07 năm 2007 của Bộ Chính trị, Cơ quan An ninh Điều
tra - Bộ Công an không trả lời được. VKSTC-V2 vẫn không thay đổi
Cáo trạng.
Sau ba lần Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an điều
tra bổ sung (11/KLĐTBS ngày 22/03/2015; 21/KLĐTBS ngày 07/08/2015; 26/KLĐTBS
ngày 22/10/2015) theo yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (QĐ:
05/VKSTC-V2 ngày 23/04/2015; 08/VKSTC-V1 ngày 08/07/2015; 09/VKSTC-V1 ngày
24/08/2015) về đảng tịch Đảng Cộng sản của Nguyễn Hữu Vinh vẫn không trả lời được,
nhưng Bản Cáo trạng vẫn không thay đổi. Trước tòa Sơ thẩm Tòa án Nhân dân Hà Nội,
ngày 23/03/2015, Thẩm phán Nguyễn Văn Phổ, Chủ tọa phiên tòa, ngăn cản không
cho Luật sư và Nguyễn Hữu Vinh nêu ra vấn đề Đảng viên và cũng không ghi chi tiết
này vào nội dung Bản án Sơ thẩm.
3) Yêu
cầu điều tra bổ sung lần thứ 5, Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an
vẫn không đưa ra được “chứng cứ hợp pháp” chứng minh Nguyễn Hữu Vinh là “Quản
trị” hai blogs “Dân quyền” và “Chép sử Việt”. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn
giữ nguyên Cáo trạng.
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an căn cứ vào
thông tin của các văn bản của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn
thông (Công ty cổ phần viễn thông FPT, Công ty điện toán và truyền dẫn
số liệu VDC, Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội HTC, Công ty dịch vụ viễn thông
Vinaphone) để cho rằng các thông tin được cung cấp có liên quan quan đến
ông Vinh, bà Thúy mà không thực hiện các việc phải chứng minh theo qui định của
BLTTHS tại Điều 63 (Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự) Điều 64,
Điều 65 (Chứng cứ - Thu thập chứng cứ), Điều 66 (Đánh giá chứng cứ). Không
tổ chức trưng cầu giám định, tổ chức thực nghiệm là vi phạm các qui định tại
các điều nêu trên của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tại văn bản số 21/KLĐTBS ngày 07/08/2015 Kết luận điều
tra bổ sung theo Quyết định trả Hồ sơ để điều tra bổ sung số 08/VKSTC-V1 ngày
08/07/2015 của Viện kiểm sát Nhân dân tối cao (Vụ 1) với yêu cầu “Làm rõ chức
năng nhiệm vụ của Công ty cổ phần viễn thông FPT; Công ty điện toán và truyền dẫn
số liệu VDC; Công ty cổ phần viễn thông Hà nội HTC; Công ty dịch vụ Viễn thông
Vinaphone”, Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an cho rằng “Tài liệu do
các công ty viễn thông cung cấp chỉ hỗ trợ cho việc chứng minh ý thức chủ quan
đối với hành vi phạm tội của các bị can. Ngoài những tài liệu này, cơ quan điều
tra đã thu thập đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị
can trong vụ án. Do đó không cần thiết phải làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các
Công ty đã nêu trên”.
Như vậy, các văn bản do các doanh nghiệp trên cung cấp
“chỉ hỗ trợ” không đảm bảo tính khách quan, tính hợp pháp để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với ông Nguyễn Hữu Vinh, bà Nguyễn Thị Minh Thúy. Cơ quan An ninh
Điều tra lại chỉ ra “Ngoài những tài liệu này, cơ quan điều tra đã thu thập
đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị can trong vụ án”.
“Đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội”
nào? Phải chăng là những ghi chép trong các “sổ nhật ký”, là những tài liệu tải
xuống từ Internet đang nối với đường truyền tốc độ cao không hợp pháp, sẽ nêu
dưới đây, hay là các thông tin mà các cơ quan tổ chức bưu chính viễn thông:
FPT, VDC, HTC, Vinaphone đã cung cấp theo yêu cầu của Cơ quan an ninh - Bộ Công
an về ngày, giờ, thời gian mà Nguyễn Hữu Vinh “giao diện” trên hai blogs. “Giao
diện” là đang đọc tin trên hai blogs “Dân Quyền” “Chép Sử Việt”. Vấn đề quan trọng
là không có chứng cứ, dấu vết nào để Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an và cả
VKSTC chứng minh cho thấy Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy là người đã,
đang thực hiện các quyền của người “Quản trị” hai
blogs để“viết bài, chỉnh sửa bài viết, xóa bài viết, đăng tải bài viết
lên hai blogs, kiểm duyệt ý kiến bình luận của người đọc…”.
“Theo Bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh
điều tra, Bộ Công an số 14/ANĐT ngày 30/10/2014 và Cáo trạng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao số 05/VKSNDTC-V2 ngày 06/02/2015, thì “từ ngày
20/09/2013 (theo cơ quan điều tra là ngày Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy
lập hai blog “Dân Quyền” và “Chép Sử Việt” đến
ngày bị bắt (05/05/2014), blog “Dân Quyền” đã đăng 2014
bài viết, 38.567 phản hồi và có 3.243.330 người truy cập; blog “Chép
Sử Việt” đã đăng 383 bài viết, 3.401 phản hồi và có 480.353 người
truy cập”.
Với 383 đến 2014 bài viết đã đăng, từ 480.353 đến
3.243.330 người truy cập… trên hai blogs, nhưng sau 23 tháng, Cơ quan An ninh
Điều tra - Bộ Công an vẫn không tìm được dấu vết, chứng cứ chứng minh Nguyễn Hữu
Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy là người đã, đang có hành vi thực hiện các thao
tác trên với tư cách là người “Quản trị” hai blogs “Dân Quyền” và “Chép sử Việt”,
kể cả “Hành vi sửa bài trước khi đăng” như đã nêu ở trên.
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an lại chuyển
sang tìm mật mã - tài khoản số điện thoại và địa chỉ Email của Vinh và Thúy.
Nhưng theo chánh sách bảo mật của Google, công ty cung cấp dịch vụ Gmail, thì
Google không cung cấp thông tin cho bất kỳ ai, trừ khi có trát đòi hoặc theo
yêu cầu của người dùng. Họ sử dụng chứng chỉ bảo mật SSL (Secure Sockets
Layer), một chứng chỉ bảo mật qua giao tiếp Internet, để bảo mật tài khoản người
dùng. Vì vậy, công ty cung cấp dịch vụ mạng, cụ thể trong vụ này là các công
ty: VDC, FPT, Vinaphone, HTC cũng không thể biết thông tin tài khoản của người
khác. Nếu bằng nghiệp vụ chuyên môn biết được, thì chứng cứ đó là chứng cứ bất
hợp pháp. Các chứng cứ này, nếu có, cũng phải qua một cơ quan, tổ chức hợp pháp
thẩm định. Việc này không được thực hiện. Cứ cho rằng Cơ quan An ninh Điều tra
- Bộ Công an biết được số điện thoại và Email của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị
Minh Thúy để truy cập vào hai blogs, nhưng truy cập để đọc tin như hàng vạn, hạng
triệu người truy cập khác, thì không thể kết tội được.
II. Nhiều hành vi điều
tra vụ án của Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an, vi phạm nghiêm trọng Bộ Luật
Tố tụng Hình sự theo qui định tại Thông tư liên tịch số:
01/2010 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27 /08/2010 v/v “Hướng dẫn thi hành các
qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung” của
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao - Bộ Công an - Tòa án Nhân dân Tối cao.
a)
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an đã vi phạm nghiêm trọng qui định Điều 42
Bộ luật tố tụng hình sự và điểm i, khoản 2 Điều 4 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC số
01/2010 ngày 27/08/2010, không từ chối hay thay đổi người tiến hành tố tụng.
Trung tướng Hoàng Công Tư là Thủ trưởng cơ quan An
ninh Điều tra - Bộ Công an chủ trì điều tra vụ án “Nguyễn Hữu Vinh - Nguyễn Thị
Minh Thúy” lại là người có tên trong bài “Ông trời con Hoàng
Công Tư vs BBC”đăng ngày 30/04/2014 thuộc danh sách 24 bài báo
được cho là “có hại”.Ông Hoàng Công Tư không từ chối hoặc thay đổi vai
trò tiến hành tố tụng.
b)
Không giải quyết khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết đúng theo qui định của
pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ: điểm
o, khoản 2 Điều 4 TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC Số 01/2010 ngày 27/08/2010.
Theo Nguyễn Hữu Vinh, thì Vinh đã gửi đến Tòa án
thành phố Hà Nội các thư đề ngảy cụ thể: ngày 10/02/2015 (25 trang) gửi Tòa án;
ngày 23/11/2015 (55 trang). Một số thư Cán bộ Trại B 14 không gửi: ngày
05/03/2015; ngày 26/05/2015; ngày 03/06/2015; ngày 11/12/2015… Thư mới gửi chưa
hồi âm ngày 26/02/2016: 58 trang và gần đây là đơn gửi tòa án cấp
cao Hà Nội dài trên 70 trang… cùng nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo của bà Lê Thị
Minh Hà, vợ Nguyễn Hữu Vinh.
Tất cả các đơn thư khiếu nại nêu trên của ông Nguyễn
Hữu Vinh đều không được các cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an, Viện Kiểm
sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Hà Nội trả lời về các nội dung nêu trong
đơn.
c)
Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với với “một số tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin” không đúng trình tự, thủ tục
theo hướng dẫn thi hành BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình
sự: điểm k, khoản 2 Điều 4
TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC số 01/2010 ngày 27/08/2010.
Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an đã vi phạm
nghiêm trọng Bộ Luật Tố tụng Hình sự và Thông tư liên tịch Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
và Tòa án Nhân dân Tối cao số:
10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10 tháng 09 năm 2012 “hướng
dẫn áp dụng qui định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực Công
nghệ Thông tin”. Khi khám xét, Cơ quan điều tra vẫn duy trì máy
tính (laptop) nối với đường truyền Internet tốc độ cao để lấy
(download), in tài liệu làm chứng cứ buộc tội.
III. Tòa
án Sơ thẩm Tòa án nhân dân Hà Nội đã đưa “Chứng cứ không hợp pháp” để buộc tội.
Tại phiên tòa của Tòa án Nhân dân Hà Nội ngày
23/03/2016, trước những lập luận của tôi, Luật sư Trần Quốc Thuận và 6 Luật sư
khác cùng Nguyễn Hữu Vinh - Nguyễn Thị Minh Thúy đã bác bỏ toàn bộ các chứng cứ
buộc tội mà bản Cáo trạng đã nêu ra; chỉ ra nhiều hành vi của Cơ quan An ninh
Điều tra - Bộ Công an trong quá trình điều tra đã vi phạm nghiêm trọng qui định
của BLTTHS và các thông tư liên ngành hướng đẫn thi hành BLTTHS, hai kiểm sát
viên giữ quyền công tố “không đưa ra được lập luận của mình đối với từng ý kiến”,
và chủ tọa phiên tòa không thực hiện “quyền đề nghị Kiểm sát
viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh tụng”(Điều
218, BLTTHS). Khi Luật sư yêu cầu trả lời các ý kiến của Luật sư và bị cáo, nếu
không trả lời, thì có nghĩa là ý kiến của Luật sư và của bị cáo là đúng, có
nghĩa là các hành vi của ông Vinh bà Thúy “không đủ yếu tố cấu thành tội
phạm”, Chủ tọa phiên tòa [và] hai vị Hội thẩm nhân dân đều im lặng.
Phải chăng vì không trả lời, giải đáp được các lập
luận bào chữa, không bảo vệ được bản Cáo trạng, nên khi nghị án, Chủ tọa phiên
tòa đã đưa ra “hành vi tội danh mới” để buộc tội. Nhưng chứng cứ, hành vi đó
không phải là “những hành vi theo tội danh của Viện kiểm sát truy tố và tòa án
đã quyết định đưa ra xét xử’ theo qui định Điều 196 “Giới hạn xét xử” (BLTTHS):
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo
tội danh của Viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết
định đưa ra xét xử”.
“Hành vi chứng cứ mới” thực chất là trên 10 trang (từ
trang 08 đến trang 18 của Bản án), lấy từ cuốn sổ tay Notebook; Bản
nhật ký 8 trang; cuốn sổ tay Heeton… Đây là những hành vi không theo tội
danh của Viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử; ngay cả
Bản kết luận điều tra số: 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của Cơ quan An ninh Điều tra
- Bộ Công an cũng không có các hành vi, chứng cứ có nội dung này. Điều quan trọng
nữa là tất cả các hành vi này (“về các ghi chép trong nhật ký”) không được
đưa ra phiên tòa để kiểm chứng tranh luận. Đây là“chứng cứ không hợp pháp”.
“Khi
nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên tòa” (khoản 3, Điều 222 BLTTHS 2003). Nhưng
Biên bản Nghị án cho thấy Thẩm phán và hai vị Hội thẩm chưa thực hiện đúng theo
qui định này; lại lấy “các chứng cứ và tài liệu” (các ghi chép trong nhật ký)
chưa được thẩm tra tại phiên tòa để vừa “luận tội” vừa “kết tội”, tạo ra một “Bản
án không hợp pháp”.
Điều tôi quan tâm, ray rứt là từ Bản Kết luận điều
tra ban đầu của Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ Công an CA đến 5 lần yêu cầu Điều
tra bổ sung của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao mà Cơ quan An ninh Điều tra - Bộ
Công an vẫn không đáp ứng được, nhưng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vẫn không
thay đổi Bản Cáo Trạng, thực chất là vẫn giữ nguyên “sao chép” Bản Kết luận Điều
tra ban đầu. Tiếp đến là Bản án lại ghi lại những nội dung mà Bản Kết luận điều
tra và Cáo trạng đã ghi, không trả lời các ý kiến bào chữa của bị cáo và các luật
sư, thêm vào đó là đưa vào “chứng cứ không hợp pháp, chứng cứ không theo tội
danh truy tố của Viện Kiểm sát và Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử”, quyết
“kết án cho bằng được” Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy.
Đến nay, tôi vẫn chưa có tiên liệu kết quả phiên tòa
phúc thẩm, nhưng tôi đề nghị Hội đồng phúc thẩm nên xem xét kỹ lại hoàn cảnh và
nhân thân của các bị cáo để có hình thức xử lý thích hợp đối với từng bị cáo.
Trước hết với Nguyễn Hữu Vinh nguyên là sĩ quan an ninh Bộ Công an, đã lập
thành tích, có bố mẹ đều là Cách mạng lão thành. Bố là cụ Nguyễn Hữu Khiếu đã từng
là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, Giám đốc Công an
khu 4, Đại sứ tại Liên Xô cũ, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội. Đối
với Nguyễn Thị Minh Thúy, bà chỉ là nhân viên làm việc hưởng lương của Vinh,
theo tôi được biết, thì đến nay Vinh còn tiếp tục trả lương để Thúy nuôi hai
con. Thúy đã thôi chồng, hai con còn nhỏ đang ở với ông bà già yếu.
Những trình
bày nêu trên cho thấy đây là một “Bản án không hợp lệ, không hợp pháp”. Theo tinh thần tuân thủ Hiến pháp 2013, Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015,
tôi đề nghị Hội dồng xử án hôm nay:
“ Khi
không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này qui định, thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải kết luận người bị buộc tội không có tội” (Đoạn 2, Điều 13, Suy đoán vô tội - Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015).
KIẾN
NGHỊ
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 248, khoản 2 điều 107, Điều
251 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003,
*Viện Kiểm sát nhân dân tối cao rút toàn bộ Cáo trạng
số 05/VKSTC. V2 Ngày 06 tháng 02 năm 2015 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
“quyết định truy tố đối với ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo
khoản 2 điều 258, BLHS”;
*Tòa án Nhân dân Cấp cao Hà Nội ra quyết định hủy án
Hình sự sơ thẩm của Tòa án Nhân dân Hà nội tại Bản án số: 96/2016/HSST ngày 23
tháng 03 năm 2016 về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo khoản 2 Điều
258 Bộ Luật Hình sự (Cáo trạng số 05/VKSTC. V2 ngày 06 tháng 02 năm 2015 của Viện
Kiểm sát Nhân dân Tối cao) với mức án Nguyễn Hữu Vinh 05 năm tù; Nguyễn Thị
Minh Thúy 03 năm tù;
*Tuyên bố hành vi của ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn
Thị Minh Thúy “không cấu thành tội phạm hình sự”;
* Tuyên bố trả tự do ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn
Thị Minh Thúy.
T.
Q. T.
Tác giả gửi BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:50
No comments:
Post a Comment