TÔI
SẼ KHIÊU KHÍCH XÃ HỘI BẰNG MỘT ĐỀ NGHỊ MÀ ĐA SỐ SẼ THẤY NÓ VÔ LÝ, NHƯNG NẾU CÓ
HIỂU BIẾT VÀ BÌNH TĨNH HƠN THÌ SẼ KHÔNG NGHĨ NHƯ THẾ
Tôi đưa lại toàn văn tham luận của tôi trong hội thảo
"Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hồi
nhập quốc tế" nhân Vietnamnet đưa phát biểu của tôi trong Hội thảo "Hán Nôm học và văn hóa đương đại" ở Viện Hàn
lâm KHXH vừa rồi. Bài viết này đã viết từ năm 2010, có rất nhiều người phê phán
(mà đa số là không rành lắm về chuyện này), nhưng nhiều người hiểu biết rất
chia sẻ. Có du học sinh bên Mỹ viết: ông này đề nghị giống như ở Mỹ và châu Âu
cho học tiếng Latin ở những trường tinh hoa (một số giờ nhất định). Tôi sẽ
không tranh luận về vấn đề này, vì tâm trạng chống TQ và cái ham muốn thực dụng
hiện nay, tôi chỉ muốn nói: tri thức nhân loại là vô cùng, chỉ nên học cái gì
là cơ bản thôi, cái gì tạo nên cốt cách con người, tạo ra sự tự tin khi dùng tiếng
Việt... Chịu khó đọc cho hết, suy nghĩ trước khi comment. Vì đây không phải là
chuyện tầm phào, không phải ai cũng có ý kiến được.
*
*
THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN VÀ GIỮ GÌN SỰ
TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ”
TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ”
Khôi
phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường - một phương pháp quan trọng để giữ gìn
tiếng Việt và văn hoá Việt Nam
ĐOÀN LÊ GIANG(*)
1. Tại
sao phải học chữ Hán?
Sự sụp đổ của tiếng Việt?
Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng,
trong sách báo, tiếng Việt đang bị dùng sai một cách khủng khiếp. Chỉ có mấy từ
dùng sai mà sửa mãi mấy chục năm vẫn không hết: yếu điểm được dùng như điểm yếu,
cứu cánh được dùng như cứu giúp, thậm chí có nhà văn nọ trên báo Văn nghệ còn
dùng từ khiếm nhã như là trang nhã… Ngay cả sinh viên ngành khoa học xã hội và
nhân văn mà vốn từ hết sức nghèo nàn. Nhiều trong số họ không còn có khả năng
hiểu được cả những từ gắn với nhà trường như: học phong, môn phong, đồng song,
đồng môn, không phân biệt được nghĩa của những chữ đồng âm như: Minh: thông
minh, đồng minh, u minh, Đồng: đồng bào, đồng hồ, hài đồng v.v. Nếu như có dịp
chúng ta thử thống kê một bài luận của một người có bằng thành chung trước 1945
và một người có bằng tú tài hiện nay xem vốn từ của họ chênh lệch với nhau như
thế nào? Liệu tiếng Việt trong tương lai có thể sẽ như ngôn ngữ “chat” trên mạng
không? Tiếng Việt có thể sẽ trở về như một thổ ngữ chỉ nói được những chuyện
đơn giản thường nhật không?
Những sai lầm yếu kém trên sẽ không có nếu học sinh
được học chữ Hán, có thói quen tra từ điển Hán - Việt và tiếng Việt. Vì vậy nếu
như 50 năm trước Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt là do lo ngại tình trạng lạm dụng từ gốc Hán, như: thay vì sân bay thì nói
phi trường, núi lửa thì nói hỏa diệm sơn, tàu ngầm thì nói tiềm thủy đĩnh…,
nhưng với tình hình giáo dục như hiện nay thì lấy đâu ra người hiểu được chữ Diệm
là cái sáng, cái nóng trên ngọn lửa, Tiềm thủy là ẩn dưới nước…, thế cho nên
bây giờ nói đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chính lại là phải học
chữ Hán.
Ở Nhật Bản từ mấy chục năm trước những trí thức có
tâm huyết đã báo động về nguy cơ suy thoái của tiếng Nhật qua một loạt sách bán
rất chạy với tựa đề gây “sốc”: Sự sụp đổ của tiếng Nhật (崩(くず)れゆく日本語), Tại sao người ta phá hoại tiếng Nhật? (なぜ日本語を破壊するのか) của Fukuda Tsuneari 福田恒存; Tiếng Nhật hấp hối (死に掛けた日本語) của Tsuchiya Michio 土屋道雄(1). Trong đó cuốn Sự sụp đổ của tiếng Nhật với phụ
chú “Tiếng Nhật của bạn đang hỗn loạn như thế nào!” (あなたの日本語はこんなに乱(みだ)れている) trở thành một loại sách bestseller – trong vòng 3
năm nó được tái bản đến 10 lần với số lượng hàng trăm ngàn bản. Trong tất cả các
sách ấy, người ta đều quy nguyên nhân cho sự suy thoái của tiếng Nhật là ở chỗ
dùng từ gốc Hán sai, kiến thức về chữ Hán nghèo nàn, lạm dụng từ gốc tiếng
Anh... Tiếng Nhật với một chương trình giáo dục chú ý giảng dạy gần 2000 chữ
Hán mà còn như vậy, huống chi tiếng Việt. Trước tình hình giáo dục và sử dụng
tiếng Việt như hiện nay, chúng ta cảnh báo về sự sụp đổ của tiếng Việt có còn sớm
quá không? Số từ gốc Hán chiếm đến 70% số từ vựng tiếng Việt, mà người Việt
không học chữ Hán, không hiểu chữ Hán, thế thì làm sao mà chẳng dùng từ sai và
vốn từ nghèo nàn. Nếu tình hình không được cải thiện thì viễn cảnh về sự sụp đổ
của tiếng Việt sẽ còn không xa.
Vong
bản ngay trên đất nước mình
Có lần một sinh viên Nhật Bản khoe với tôi: Em đến
thăm chùa Vĩnh Nghiêm thấy đề là chùa thuộc phái Lâm Tế, em thấy rất thân thuộc
vì giống như ngôi chùa ở gần nhà bà ngoại em. Thế nhưng đối với một thanh niên
Việt Nam thì khi họ đến chùa Vĩnh Nghiêm hay chùa Tây Phương, chùa Bút Tháp…,
nhìn lên bảng hiệu, hoành phi, câu đối hay bài vị, họ sẽ cảm thấy xa lạ như bất
kỳ một ngôi chùa nào ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc…
Thanh niên Việt Nam không còn thấy có một mối dây
liên hệ nào giữa mình với quá khứ của ông cha: đình chùa, miếu mạo, thư tịch. Họ
không có xúc cảm nào trước một tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, một quyển Kiều
bằng chữ Nôm, một ngôi mộ của Nguyễn Du, của Nguyễn Đình Chiểu…Có thể nói thanh
niên Việt Nam đang vong bản ngay chính trên đất nước mình. Thế nên ai cũng thấy,
so với các nước Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…thanh niên Việt Nam hiện
đại hóa yếu nhất, nhưng đồng thời cũng giữ bản sắc dân tộc kém nhất. Vì vậy nếu
như vào thời Lê, Nguyễn Trãi yêu cầu phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tức
là không lạm dụng văn hóa, ngôn ngữ, trang phục Hán, bây giờ giữ gìn bản sắc
dân tộc thì lại phải học chữ Hán và có hiểu biết về văn hóa phương Đông(2).
Các
trí thức, nghiên cứu sinh Việt Nam với các trí thức, nghiên cứu sinh Đông Á
Khi một nhà văn Nga, Mỹ đến thăm Y.Kawabata, nhà văn
Nhật Bản được giải Nobel năm 1968, thì thường được Kawabata viết tặng cho một bức
thư pháp chữ Hán theo phong cách Nhật Bản. Một giáo sư Trung Quốc, Đài Loan đến
thăm một giáo sư Việt Nam, các ông cũng thường tặng một bức thư pháp. Cái thú
tao nhã ấy đối với các nhà văn Việt Nam đã lùi xa lắm rồi - thời Đông Hồ, Vũ
Hoàng Chương thì còn, chứ như bây giờ thì hoàn toàn không. Trong giao tiếp còn
như vậy huống chi trong sáng tác. Vì vậy sẽ không lấy làm lạ khi trong tác phẩm
của các nhà văn Đông Á chiều sâu của văn hóa truyền thống sâu sắc hơn hẳn các
nhà văn Việt Nam hiện nay.
Đối với nhà văn thì thế, với các nhà nghiên cứu tình
trạng cũng buồn không kém. Các nhà nghiên cứu Đông Á - trừ Việt Nam, dù không
nghiên cứu chuyên về cổ điển nhưng vẫn hiểu được khá sâu chữ Hán và văn hóa
truyền thống của họ. Dù họ làm văn, sử, triết, nhân học, ngôn ngữ học…hiện đại,
họ vẫn có thể đọc được thư tịch cổ của nước họ - với nhiều mức độ khác nhau. Ở
Việt Nam một nhà nghiên cứu sẽ cảm thấy rất khó khăn khi hiểu về những vấn đề
văn, sử, triết, ngôn ngữ cổ của dân tộc mình. Sinh viên, nghiên cứu sinh về
KHXH và nhân văn của Việt Nam gần như không hiểu được sách vở của cha ông nếu
không được dịch, chú, phiên âm ra chữ quốc ngữ Latin – mà đã đọc bản dịch mà
không có khả năng kiểm tra độ chính xác của bản dịch ấy thì mức độ tiếp thu, thấu
hiểu rất khiêm tốn. Có một hiện tượng cần lưu ý là hiện nay có nhiều nghiên cứu
sinh, học viên cao học Trung Quốc đang nghiên cứu rất sâu về văn hóa cổ của Việt
Nam – mà Đại học Quảng Tây là một trung tâm được phân công chuyên nghiên cứu về
việc ấy. Họ nghiên cứu từ văn bản gốc về Lý Công Uẩn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Lê Quý Đôn…, trong khi đó hầu như các nghiên cứu sinh Việt Nam không thể làm được
điều ấy – trừ số tốt nghiệp chuyên ngành Hán Nôm(3).
Có thể nói khi ra nước ngoài học tập, sinh viên, học
viên cao học, nghiên cứu sinh Việt Nam không thua kém gì so với sinh viên các
nước Đông Á khác về khoa học tự nhiên, kỹ thuật, hay kể cả kinh tế, nhưng về
KHXH và NV thì còn kém khá xa. Không ít sinh viên Việt Nam than thở không biết
biểu diễn bộ môn văn hóa truyền thống gì cho bạn bè các nước xem, trong khi
sinh viên Hàn Quốc ai cũng biết biểu diễn trống dân tộc và viết được thư pháp
Hàn, sinh viên Nhật thì khỏi phải nói: trà đạo, kiếm đạo, hoa đạo, nhu đạo, thư
đạo… Sinh viên Việt Nam ngoài áo dài và nem rán ra thì hết! Tại sao sinh viên
Việt Nam đến nông nỗi ấy? Trước hết là vì kinh tế, nhưng quan trọng hơn là: nền
giáo dục của chúng ta rất kém trong việc giáo dục văn hóa truyền thống mà việc
loại bỏ chữ Hán là biểu hiện đầu tiên và gây ấn tượng nhất. Học tắt, “đi tắt”
là não trạng chiến tranh hay là một khiếm khuyết của dân tộc?
Sinh thời nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo từng nói nhiều
về ích lợi của chữ Hán trong sự phát triển của trí tuệ, từng cảnh báo nhiều lần
về nguy cơ hiểu biết hời hợt về văn hóa của người Việt khi Việt Nam là nước duy nhất trong
khu vực Đông Á bỏ chữ Hán hoàn toàn. Gần đây GS. Nguyễn Đình Chú cũng viết
bài nói về sự cần thiết phải khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường(4). Việc
dạy chữ Hán không phải được đặt ra gần đây, mà nó đã được đặt ra từ hơn 100 năm
trước – từ thời các chí sĩ duy tân mở trường Đông Kinh Nghĩa thục, rồi trở đi
trở lại nhiều lần trong lịch sử giáo dục Việt Nam, nhưng rồi do chiến tranh, do
những lấn cấn trong quan hệ Việt-Trung và nhất là do nhận thức chưa tới mà chủ
trương ấy đành bỏ dở.
2. 100 năm – một chủ
trương bỏ dở
Ước
mơ của thế hệ trí thức cận đại
Trong luận văn khét tiếng Luận về chính học cùng tà
thuyết của Ngô Đức Kế, nhà chí sĩ đã phê phán một cách mạnh mẽ tình trạng học
thuật đương thời: “Âu học vẫn chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội
rễ”(5). Ông vẫn mơ ước dân tộc ta có một nền Quốc học sâu sắc để làm cơ sở tiếp
thu nền văn minh hiện đại từ phương Tây.
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục của các chí sĩ duy tân thành
lập năm 1907, cho đến nay vẫn được nhiều chuyên gia về lịch sử, ngữ văn, giáo dục
đánh giá là trường học có tư tưởng giáo dục tiên tiến nhất, sâu sắc nhất ở nước
ta từ trước đến nay. Trường đề cao thực học, đề cao tự do trình bày tư tưởng, cổ
động việc học chữ quốc ngữ Latin thay cho chữ Nôm, nhưng bên cạnh đó Trường vẫn
tổ chức học một cách nghiêm túc 2 ngoại ngữ bắt buộc: Pháp văn (do Nguyễn Văn
Vĩnh cùng một số nhà giáo nữa phụ trách) và Hán văn (do Nguyễn Quyền, Hoàng
Tăng Bí, Lương Trúc Đàm…phụ trách). Nếu từ đó đến nay tư tưởng giáo dục ấy được
thực hiện thì chúng ta đã có một nền giáo dục Việt Nam khác hẳn: hiện đại hơn,
nhưng cũng đậm đà bản sắc dân tộc hơn.
Trước 1945 ở nước ta, sau khi thực dân Pháp bỏ các kỳ
thi chữ Hán thì chữ Hán vẫn được giảng dạy trong nhà trường, mỗi tuần 1-2 tiết.
Tuy số tiết học rất ít ỏi, nhưng cũng đủ cho người học hiểu được chữ Hán, không
dùng sai tiếng Việt và để cái tinh thần truyền thống qua thứ chữ ấy góp phần tạo
nên cốt cách con người. Nhiều gia đình có gia phong tốt vẫn mời thầy về hoặc tự
gia đình mình dạy chữ Hán cho con cháu. Nhờ cách làm ấy mà các trí thức được
đào tạo thời Pháp nhìn chung đều có một kiến thức Hán học khá vững chắc bên cạnh
kiến thức Tây học căn bản. Chính họ chứ không phải ai khác đã làm rường cột trí
thức cho quốc gia và mãi mãi là niềm tự hào của đất nước: Đào Duy Anh, Cao Xuân
Huy, Đặng Thai Mai, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn
Huyên, Trần Văn Giàu…
Chương
trình Hán văn khóa bản ở miền Nam trước 1975
Nhận thức được tầm quan trọng của chữ Hán nên Bộ Quốc
gia Giáo dục miền Nam trước 1975 từng tổ chức một chương trình Hán văn dạy cho
học sinh từ trung học đệ nhất cấp với bộ sách giáo khoa khá tốt: Hán văn khóa bản,
học 1 giờ/ tuần bên cạnh hai sinh ngữ bắt buộc: Anh văn và Pháp văn. Lên đến
trung học đệ nhị cấp, các chuyên ban được chia ra như sau:
- Ban A: chuyên sâu về Vạn vật
- Ban B: chuyên sâu về Toán
- Ban C: chuyên về Sinh ngữ (Anh, Pháp)
- Ban D: chuyên về cổ ngữ (chọn Anh hoặc Pháp và một cổ ngữ: Hán văn hoặc Latin) (6)
- Ban B: chuyên sâu về Toán
- Ban C: chuyên về Sinh ngữ (Anh, Pháp)
- Ban D: chuyên về cổ ngữ (chọn Anh hoặc Pháp và một cổ ngữ: Hán văn hoặc Latin) (6)
Một chương trình như thế là rất căn bản, rất đáng
tham khảo, học tập. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam cũng hiểu cái tế toái của
việc dạy - học chữ Hán, cái khổ công của việc học một hai ngoại ngữ, nhưng họ sẵn
sàng bỏ bớt nhiều môn học khác để dành thời gian học ngôn ngữ và cổ ngữ (học cả
tiếng Latin như các trường phổ thông ở châu Âu), vì chỉ qua ngôn ngữ người ta mới
hiểu sâu được văn hóa và mới có thể phát triển tư duy. Học ngôn ngữ là cái học
căn bản, từ đó tạo điều kiện cho người ta tự học, tự học suốt đời. Ngày nay để
giải quyết tận gốc cái tệ “trần ngôn sáo ngữ” trong việc học và thi môn ngữ văn
ở trường phổ thông, tôi thấy cần phải tham khảo nghiêm túc chương trình giáo dục,
trước hết là quốc văn và sinh ngữ của miền Nam trước 1975 cùng với chương trình
các nước Đông Á và phương Tây khác để làm ra một chương trình mới căn bản hơn,
hiện đại hơn, có tác dụng bồi bổ nguyên khí của quốc gia.
“Thoát
Hán học”?
Ở miền Bắc chữ Hán bị loại hẳn ra khỏi trường phổ
thông từ khá sớm. Trong chương trình giáo dục phổ thông không thấy học Hán văn
mà chỉ có môn Trung văn với tính cách là môn ngoại ngữ hàng đầu cùng với môn
Nga văn. Nguyên nhân của sự ghẻ lạnh với chữ Hán có lẽ xuất phát từ không khí
“phản đế phản phong” bao trùm xã hội bấy giờ. Tất cả những gì thuộc về cổ học
và Hán học đều dễ bị đánh đồng với chế độ phong kiến tàn ác, bảo thủ, lạc hậu.
Phải chăng lúc bấy giờ chúng ta muốn xây dựng nền giáo dục mới, con người mới,
xã hội mới, một nền độc lập tự chủ trên cơ sở một nước Việt Nam mới phủ định
quá khứ phong kiến, có xu hướng “thoát Hán học”?
Cách mạng văn hóa của Trung Quốc nổ ra, ít nhiều ảnh
hưởng đến nước ta với khẩu hiệu “phê Lâm phê Khổng” (phê tên phản động Lâm Bưu,
phê Khổng Tử) làm cho xu hướng bài xích Hán học càng mạnh. Đỉnh điểm của xu hướng
bài xích Hán học ấy là việc Trung văn, Hán học bị lẳng lặng đưa ra khỏi nhà trường
sau khi tiếng súng của người đàn anh khổng lồ nổ ra ở biên giới phía Bắc năm
1979.
Thoát Hán học có phải là con đường đúng đắn để xây dựng
nền giáo dục mới không? Hán học có mặt ở nước ta hàng nghìn năm nay, gắn bó với
dân tộc này, nên nó đã trở thành một phần của Quốc học. Vì thế “thoát Hán học”
cũng mở đường cho thoát Quốc học. Các nước Đông Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc
không cần thoát Hán học, thậm chí đưa cả một phần tinh thần Hán học vào hoạt động
kinh tế, xã hội, thế mà vẫn xây dựng được đất nước hùng cường với một nền kinh
tế phát triển, một nền công nghiệp hiện đại.
3. Dạy chữ Hán trong
nhà trường như thế nào?
Người
Việt cô đơn ở khu vực Đông Á
Hiện nay cùng với sự tăng trưởng đầu tư mạnh mẽ của
các nước Đông Á, số lượng học viên học các tiếng Hoa, Nhật, Hàn tăng lên nhanh
chóng. Theo thống kê gần đây: số lượng người học tiếng Nhật toàn quốc lên đến
20.000 người, số lượng người học tiếng Hoa nhiều hơn một chút. Việc học các
ngôn ngữ phương Đông có sử dụng chữ Hán như trên, khiến cho sinh viên Việt Nam
càng thấy trong vốn ngôn ngữ của mình thiếu hụt trầm trọng chữ Hán và vốn văn
hóa truyền thống quá nghèo nàn.
Sau giấc mơ hiện đại hóa bằng cách làm bạn với các
nước XHCN Đông Âu bất thành, Việt Nam trở về với khu vực của mình: Đông Nam Á
và Đông Á. Văn hóa Đông Nam Á là cơ tầng thứ nhất của Việt Nam, nhưng chúng ta
đã xa cách vùng văn hoá này từ hàng nghìn năm nay, ngày nay chúng ta càng cảm
thấy xa hơn nữa do tôn giáo Đông Nam Á chủ yếu là Hồi giáo và Phật giáo tiểu thừa.
Việt Nam trở về với khu vực Đông Á, còn được mệnh danh là Khu vực văn hóa chữ
Hán (Hán tự văn hóa quyển), phát triển mạnh mẽ hơn, mà gần gũi với mình hơn. Trở
về với Đông Á mới thấy việc loại bỏ hoàn toàn chữ Hán ra khỏi chương trình giáo
dục khiến người Việt Nam hiện tại đứt đoạn với truyền thống dân tộc, và người
Việt trở nên lạc lõng, cô đơn với các nước trong khu vực. Dân tộc Việt Nam vốn
không phải là một dân tộc cực đoan, nhưng do những trớ trêu của lịch sử và cả
sai lầm trong nhận thức khiến cho chúng ta đoạn tuyệt với chữ viết, văn hóa ông
cha mạnh mẽ hơn tất cả các quốc gia khu vực văn hóa chữ Hán còn lại.
Nhìn ra các nước Đông Á, không có nước nào dám đoạn
tuyệt với chữ Hán:
• Người Trung Quốc trước kia trong cơn sùng bái
phương Tây và đổ lỗi sự lạc hậu của dân tộc mình cho chữ Hán, đã từng mơ Latin
hóa chữ viết của mình, nhưng giấc mơ ấy bất khả. Họ đành bằng lòng quay về với
việc dùng chữ Hán giản thể, và dạy cho học sinh phổ thông biết tối thiểu khoảng
3.000 chữ Hán để có thể đọc được tiếng phổ thông.
• Người Nhật Bản cũng từng thử nghiệm dùng chữ
Romaji (Chữ Latin) nhưng những văn bản Latin tiếng Nhật hồi đầu thế kỷ XX trở
thành những bản mật mã. Họ đành sử dụng hệ thống chữ Kana (chữ phiên âm) mà dân
tộc họ đã sáng tạo ra từ hơn 10 thế kỷ trước với hai dạng Hiragana và
Katakana(7), bên cạnh đó vẫn phải bắt buộc học sinh tốt nghiệp trung học phải
biết thuần thục 1.945 chữ Hán
• Người Hàn Quốc chính thức sử dụng chữ Hangul mà
dân tộc họ đã sáng tạo ra từ TK.XV(8), trong văn bản tiếng Hàn thông thường hiện
nay hầu như không còn chữ Hán nữa, nhưng những văn bản cổ hơn hay tài liệu khoa
học thì dùng khá nhiều. Vì vậy chương trình giáo dục của Hàn Quốc vẫn dạy chữ
Hán cho học sinh: cấp 2 dạy 900 chữ, cấp 3 dạy 900 chữ, tổng cộng là 1800 chữ.
Lên đại học, sinh viên muốn đi sâu vào KHXH thì phải học chữ Hán nhiều hơn nữa.
Chỉ riêng có Việt Nam là hoàn toàn không dạy chữ Hán
trong chương trình phổ thông. Điều ấy có liên quan gì không với tình trạng kinh
tế Việt Nam phát triển kém nhất, tiếng Việt dùng sai, nghèo nàn và bản sắc văn
hóa dân tộc mờ nhạt nhất so với các nước trong khu vực?
Làm
thế nào để dạy chữ Hán trong nhà trường?
Hiện nay chữ Hán đã “tuyệt chủng” ở Việt Nam chưa? Mặc
dù tình hình học tập chữ Hán khó khăn như thế, nhưng chữ Hán vẫn còn sống. Những
người biết chữ Hán bao gồm:
- Những nhà nghiên cứu, giảng viên chuyên nghiên cứu
về Hán Nôm. Hiện có 3 trung tâm lớn nghiên cứu và giảng dạy lâu đời về chữ Hán
là: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH
và NV – ĐHQG HN và Bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH
KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM
- Một số học giả từng được đào tạo về Hán Nôm đang
làm việc ở các ngành khác: văn, sử, triết, văn hóa…
- Một số người tự học Hán Nôm hay được đào tạo Hán
Nôm từ những chương trình khác nhau: từ gia đình cho đến trường học.
Chủ trương đưa chữ Hán vào dạy trong trường phổ
thông chắc chắn sẽ gây phản ứng dữ dội từ nhiều phía. Chúng tôi đã hình dung ra
những câu hỏi cơ bản và cách trả lời sau:
(1) Hỏi: Sao không nghĩ học cái gì khác hiện đại, kiếm
ra tiền, lại bày ra trò học Hán Nôm – một thứ chữ “cổ lỗ, lạc hậu” đã chết từ
lâu rồi?
Trả lời: Việc giáo dục không phải chỉ học cái hiện đại,
dễ kiếm tiền, việc giáo dục con người có sứ mệnh lớn hơn thế nhiều. Lợi ích của
việc học chữ Hán như đã nói ở trên là để cứu lấy tiếng Việt, để bảo vệ văn hóa
dân tộc, để góp phần xây dựng người Việt Nam trở thành những con người có học vấn,
có căn bản, biết tiếp thu cái mới, nhưng cũng biết kế thừa tinh hoa truyền thống…Việc
làm này không có gì mới mà chỉ là kế thừa tư tưởng giáo dục của ông cha từ trường
Đông Kinh Nghĩa Thục cho đến chương trình giáo dục của miền Nam trước 1975,
cũng tương tự như người Nhật, người Hàn dạy chữ Hán, người phương Tây dạy chữ
Latin cho con em họ.
(2) Hỏi: Học sinh hiện nay học đã quá tải rồi, học
thêm chữ Hán nữa thì còn thì giờ đâu nữa?
Trả lời: Học trò quá tải vì chương trình của chúng
ta quá rườm rà và vì cách học nhồi nhét, cách thi theo kiểu “trả bài” của chúng
ta. Nên lược bớt chương trình đi, chỉ học những môn căn bản thôi. Chữ Hán là một
trong những môn căn bản. Chính việc học chữ Hán sẽ cho chúng ta thấy học ngữ
văn mà học thuộc văn mẫu mất rất nhiều thì giờ như hiện nay là không cần thiết.
Hơn nữa có lẽ trước mắt chúng ta chỉ cần dạy cho học sinh khoảng 1000 chữ Hán để
cho họ biết chữ nghĩa căn bản, biết cách tra từ điển, biết cách tự học, những
ai có hứng thú thì có thể học lên chuyên ngành ở đại học. Sau này khi có điều
kiện tốt hơn, có thể dạy khoảng 2000 chữ Hán như người Nhật, người Hàn Quốc
đang làm.
(3) Hỏi: Hay để giản tiện, chỉ học âm Hán Việt như
trong các sách ngữ văn hiện nay có được không?
Trả lời: Không được. Vì chữ Hán là một thể thống nhất
Hình - Âm - Nghĩa, chúng ta lược bỏ Hình đi thì từ gốc Hán sẽ không để lại một
dấu ấn nào khả dĩ trong đầu óc học sinh. Hơn nữa mỗi một chữ Hán còn mang theo
nó toàn bộ văn hóa truyền thống.
(4) Hỏi: Giả sử Quốc hội cho phép thực hiện chương
trình dạy chữ Hán đại trà ở trường phổ thông thì lấy đâu ra giáo viên?
Trả lời: Hiện nay vẫn có nhiều giảng viên ở những đại
học lớn biết chữ Hán nhất là ở các khoa ngữ văn, lịch sử của các trường đại học
ở Hà Nội, Vinh, Huế, Quy Nhơn, Đà Lạt, TP.HCM, Cần Thơ…Chúng ta bắt đầu từ việc
dạy đại trà cho sinh viên ngữ văn ở các đại học, rồi cho dạy thí điểm ở một số
trường phổ thông. Sau đó dạy cho học sinh trung học cơ sở. Dần dần mở rộng ra học
sinh chuyên ban KHXH ở trung học phổ thông. Cuối cùng mới tính toán đến việc dạy
cho tất cả học sinh các ban khác.
4. Kết
luận
Tôi có một niềm tin sâu sắc rằng việc dạy chữ Hán
trong trường phổ thông là một xu hướng không thể đảo ngược được, các cơ quan có
trách nhiệm cũng như một bộ phận trong dân chúng chỉ có thể trì hoãn chứ không
thể cản trở được xu hướng này. Chừng nào chúng ta còn dùng tiếng Việt, chừng
nào chúng ta còn coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc, chừng nào chúng ta còn nhìn
các nước Đông Á như những cái mốc cần phải đạt được, thì chừng ấy chúng ta còn
cần phải dạy chữ Hán. Đời nay không làm thì đời sau, con cháu chúng ta có hiểu
biết hơn họ nhất định cũng sẽ làm. Chỉ có điều lúc ấy việc giảng dạy sẽ khó
khăn hơn, cái giá phải trả về sự mất gốc, khủng hoảng tiếng Việt nặng nề hơn và
chúng ta phải chịu sự oán trách của hậu thế.
Nếu chúng ta kiên quyết, kiên trì đưa Hán văn vào
chương trình phổ thông thì sẽ đến ngày chúng ta thấy kết quả. Tiếng Việt của
chúng ta sẽ giàu có hơn, trong sáng hơn, ít bị sai hơn. Chúng ta sẽ có được thế
hệ người Việt Nam mới: hiện đại, giàu có, mạnh mẽ, nhưng cũng uyên thâm cổ học,
biết cắm rễ tri thức của mình vào nguồn mạch phương Đông và dân tộc, biết sống
thung dung theo đạo học phương Đông và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc…như người
Trung Quốc, người Nhật Bản, người Hàn Quốc. Một thế hệ người Việt Nam mới như
mong ước của các sĩ phu Duy tân đầu TK.XX và của cả dân tộc ta sẽ thành sự thật.
TP.HCM, tháng 4 năm 2010
Đ.L.G
CHÚ
THÍCH
(1) Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1975), Sự sụp đổ của tiếng Nhật 崩(くず)れゆく日本語, Eichosha 英潮社xuất bản,
Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1978), Tại sao người ta phá hoại tiếng Nhật? なぜ日本語を破壊するのか , Eichosha 英潮社xuất bản
Tsuchiya Michio 土屋道雄(1976), Tiếng Nhật hấp hối 死に掛けた日本語, Eichosha 英潮社xuất bản.
(2) Nguyễn Trãi trong Dư địa chí viết: “Người trong
nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào,
Xiêm, Chân Lạp đẻ làm loạn phong tục trong nước” (Phan Duy Tiếp dịch, Nguyễn
Trãi toàn tập tân biên, tập 2, NXB.Văn học, 1999, tr.481)
(3) Về vấn đề này tôi đã có dịp trình bày trong bài
Báo động đỏ về đào tạo KHXH và NV, Tập san KHXH và NV số 39, Xuân 2010, sau đó
có đưa lên trang web: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
Trong đó chúng tôi có viết: “Hiện có hàng trăm học giả, nghiên cứu sinh Trung
Quốc và ở Trung Quốc đang nghiên cứu và chú giải về Lý Công Uẩn, Trần Nhân
Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn…Họ nghiên cứu văn bản rất kỹ lưỡng, phương pháp rất
mới mẻ, chú giải, bình luận rất thuyết phục, …Tôi đoan chắc 100% rằng gần như
tuyệt đại đa số các tiến sĩ KHXH & NV của trường ta, những người đủ tư cách
ngồi hội đồng, không thể phản biện nổi. Ai không tin tôi, xin chỉ cần đánh máy
tên các cụ của chúng ta kể trên (bằng chữ Hán) rồi tìm trên Google, đợi 30 giây
thôi sẽ hiểu rằng tôi không ngoa ngôn một chút nào! Tôi nói vậy không nhằm chê
ai hết, mà chỉ nhằm đánh động rằng việc đào tạo KHXH và NV của chúng ta đã
không đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của đất nước, của dân tộc”.
(4) Nguyễn Đình Chú: Cần khẩn trương khôi phục việc
dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam, tham luận Hội nghị khoa học
“Nghiên cứu Hán Nôm và nghiên cứu văn hóa Việt Nam” do Khoa Văn học và Ngôn ngữ,
Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TPHCM tổ chức năm 2009, xem website: http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
(5) Ngô Đức Kế: Luận về chính học cùng tà thuyết,
trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 21, NXB.KHXH, Hà Nội, 1996, tr.710
(6) Tư liệu do giáo sư Nguyễn Khuê, nguyên Trưởng Bộ
môn Hán Nôm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM
cung cấp. Nhân đây xin gửi lời cám ơn ông.
(7) Chữ viết tiếng Nhật hiện tại đang sử dụng gồm 3
hệ thống chữ (không kể chữ phiên âm Latin/ Romaji): (1) Chữ Hiragana: chữ phiên
âm có nguồn gốc từ cách viết thảo chữ Hán; (2) Chữ Katakana: chữ phiên âm có
nguồn gốc từ cách viết một phần của chữ Hán; (3) Kanji/ Hán tự: chữ Hán. Chữ
Hiragana và chữ Katakana được gọi chung là chữ Kana – chữ phiên âm. Tương truyền
chữ Kana do đại sư Kukai/ Không Hải (người sáng lập Chân Ngôn tông ở Nhật Bản,
đồng thời là một học giả tiếng Phạn) đã sáng tạo ra từ TK.IX.
(8) Hệ thống chữ viết Hàn ngữ/ Hangul (gọi đầy đủ là
“Huấn dân chính âm/ Hunmin chongum) do vua Lý Thế Tông/ Yi Se-jong và các cộng
sự của ông đã sáng tạo ra, ban hành vào năm 1446.
THƯ
MỤC THAM KHẢO
1. Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1975), Sự sụp đổ của tiếng Nhật 崩(くず)れゆく日本語, Eichosha 英潮社xuất bản
2. Fukuda Tsuneari 福田恒存 (1978), Tại sao người ta phá hoại tiếng Nhật? なぜ日本語を破壊するのか , Eichosha 英潮社xuất bản
3. Ngô Đức Kế: Luận về chính học cùng tà thuyết,
trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 21, NXB.KHXH, Hà Nội, 1996
4. Nguyễn Trãi: Dư địa chí, Phan Duy Tiếp dịch trong
Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 2, NXB.Văn học, 1999
5. Tsuchiya Michio 土屋道雄(1976), Tiếng Nhật hấp hối 死に掛けた日本語, Eichosha 英潮社xuất bản
TÓM
TẮT BÁO CÁO
Bài viết nêu lên tình trạng báo động về việc tiếng
Việt bị dùng sai và nghèo nàn, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc do
tình trạng không biết chữ Hán hiện nay. Bài viết cũng điểm qua quá trình đặt ra
vấn đề dạy chữ Hán trong nhà trường trong suốt thế kỷ XX: từ trường Đông Kinh
Nghĩa thục đến chương trình trước 1945 và từ 1954 đến 1975 ở miền Nam và miền Bắc.
Bài viết cũng điểm qua tình hình dạy chữ Hán ở các nước trong khu vực: Trung Quốc
dạy khoảng 3000 chữ Hán giản thể, Nhật Bản và Hàn Quốc dạy gần 2000 chữ Hán, từ
đó đặt yêu cầu bức thiết khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường nước ta,
coi đó như biện pháp cơ bản để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
----------------------------------
XEM THÊM :
Hoàng Tuấn Công cùng
quan điểm với Ts Đoàn Lê Giang. Năm 2014 tôi cũng từng viết bài liên quan đến vấn
đề này. Có lẽ bài chưa công bố trên một trang báo chính thống nào, nên đã tránh
được "gạch đá".http://tuancongthuphong.blogspot.com/.../tuong-chu-van-va...
TUANCONGTHUPHONG.BLOGSPOT.COM
*
Ngọc Hưng Vũ Tôi
thấy bài tham luận của Ts Giang chưa thực sự đi sâu vào thực trạng, gốc rễ của
vấn đề và chính Ts còn né tránh không dám đụng chạm:
1. Chính thể chế chính trị cộng sản đã làm người Việt "mất gốc, vong bản" trên chính Đất Nước này khi đốt phá chùa chiền, nhà thờ, miếu mạo...mọi thứ văn hóa bị họ cho là tàn dư của chế độ phong kiến.
2. Những người có học vấn, trí thức bị khép tội tay sai đế quốc và bị loại ra khỏi đời sống xã hội, và họ xây dựng con người mới qua những lớp "bình dân học vụ" để lãnh đạo, xây dựng đất nước! - Đây là gốc dễ dẫn tới "vong bản" của Dân Tộc.
Ts đề cập và thừa nhận nền giáo dục nhân bản, khai phóng trước 1975 của VNCH, vậy tại sao Ts không mạnh dạn đề xuất dẹp bỏ nền giáo dục nhồi sọ hiện nay và bê nguyên chương trình dạy và học trước 1975 của Miền Nam đưa vào giảng dạy từ mầm non cho tới ĐH, đâu cần mất công chắp vá!
Phải thừa nhận, nền giáo dục của chúng ta hiện nay như chiếc áo cũ, rách tả tơi càng chắp vá càng thấy nó thảm thương hơn!
Mong nhận được góp ý của Ts.
1. Chính thể chế chính trị cộng sản đã làm người Việt "mất gốc, vong bản" trên chính Đất Nước này khi đốt phá chùa chiền, nhà thờ, miếu mạo...mọi thứ văn hóa bị họ cho là tàn dư của chế độ phong kiến.
2. Những người có học vấn, trí thức bị khép tội tay sai đế quốc và bị loại ra khỏi đời sống xã hội, và họ xây dựng con người mới qua những lớp "bình dân học vụ" để lãnh đạo, xây dựng đất nước! - Đây là gốc dễ dẫn tới "vong bản" của Dân Tộc.
Ts đề cập và thừa nhận nền giáo dục nhân bản, khai phóng trước 1975 của VNCH, vậy tại sao Ts không mạnh dạn đề xuất dẹp bỏ nền giáo dục nhồi sọ hiện nay và bê nguyên chương trình dạy và học trước 1975 của Miền Nam đưa vào giảng dạy từ mầm non cho tới ĐH, đâu cần mất công chắp vá!
Phải thừa nhận, nền giáo dục của chúng ta hiện nay như chiếc áo cũ, rách tả tơi càng chắp vá càng thấy nó thảm thương hơn!
Mong nhận được góp ý của Ts.
*
CHỮ NHO VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
*
PGS.TS
Lê Xuân Thại
VIENNGONNGUHOC.GOV.VN|BY WWW.USSTORE.COM.VN
21/01/2016
No comments:
Post a Comment