Gia Minh, PGĐ ban Việt Ngữ
2016-08-30
2016-08-30
Khi nào vùng biển tại khu vực 4 tỉnh miền trung Việt
Nam bị hóa chất độc hại của Công ty gang thép Formosa thải ra làm ô nhiễm sẽ trở
lại sạch như xưa?
Đây là câu hỏi lớn tiếp tục được nêu ra dù rằng cơ
quan chức năng Việt Nam vào ngày 22 tháng 8 vừa qua công bố nước biển vùng ô
nhiễm nay cơ bản đã sạch.
Giới khoa học trả lời ra sao cho câu hỏi mà nhiều
người, nhất là dân trong vùng chịu tác động, vẫn nêu ra hằng ngày kể từ khi thảm
họa giáng xuống họ từ đầu tháng tư cho đến nay?
Chờ
biển tự làm sạch
Thông tin về thảm họa môi trường bởi hóa chất độc mà
Formosa thải ra biển gồm kim loại nặng, cyanur, phenol… kể từ đầu tháng tư vừa
qua được truyền thông loan đi là gần 100 tấn cá, hải sản đủ loại tấp vào dải bờ
biển hơn 200 kilomet thuộc 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa
Thiên-Huế.
Ngư dân lặn xuống đáy biển thấy cơ man nào là hải sản
chết cũng như san hô bị chết trắng.
Chính phủ Hà Nội giao nhiệm vụ cho Hội đồng Khoa học
mà theo từ của Bộ Tài nguyên-Môi trường là huy động được một đội ngũ chuyên gia
hùng hậu; rồi mời cả chuyên gia nước ngoài cùng tham dự để xem xét, phân tích mức
độ, qui mô ô nhiễm.
Sau gần 5 tháng, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên-Môi
trường thì nước biển tại 4 tỉnh nay cơ bản đã an toàn.
Kết luận được nêu ra trong báo cáo của Bộ Tài
nguyên-Môi trường nêu rõ ‘với sự kiểm soát chặt chẽ các nguồn phát thải từ đất
liền, và do cơ chế làm sạch tự nhiên của môi trường, hàm lượng các chất ô nhiễm
từ sự cố môi trường đang có xu hướng giảm theo thời gian’.
Giáo sư Tiến sĩ Trần Tứ Hiếu, khoa Hóa, Đại học Khoa
học Tự nhiên Hà Nội, đồng ý với giải thích cho rằng môi trường tự nhiên có cơ
chế tự làm sạch như trong báo cáo của Bộ Tài nguyên-Môi trường; tuy nhiên ông
nói rằng quá trình đó phải rất lâu mới có thể đạt được:
“(Hóa chất) trôi đi và sóng… pha loãng dần ra chứ nếu
đứng im thì còn lâu. Nhờ được phân tán đi thôi chứ đâu có ai lọc hay làm gì mà
biết được.
Trong điều kiện tự nhiên nó pha loãng dần thì người
ta gọi là làm sạch tự nhiên; ngoài ra nay không thải thêm ra nữa. Do đó người
ta nói là nước sạch có thể tắm và nuôi hải sản được chứ người ta không nói cá
ăn được. Những con cá bị nhiễm rồi mà còn nằm trong con cá đó thì vẫn ở đó, cá
không chết vì nhiễm lượng ít.
Còn số lắng xuống trầm tích thì nằm ở đó chứ đi đâu
và người ta cũng chỉ nói trong trầm tích chứ có nói trong nước đâu.
Bây giờ nói xử lý biển thì khó lắm, lâu lắm!”
Cần
sự can thiệp của con người
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại, thuộc Viện Hải dương Nha
Trang, cũng đưa ra nhận định của bản thân qua những thông tin ghi nhận được
trên truyền thông chính thức của Nhà nước và cho rằng ngoài qui trình tự làm sạch
của thiên nhiên, cần phải có tác động của con người thì mới có thể dọn sạch ô
nhiễm:
“ Cục An toàn thực phẩm vẫn nói hàm lượng những chất
độc hại vẫn cao hơn mức cho phép. Qua mẫu cá do dân đánh bắt được về qua xét
nghiện vẫn thấy cyanur, phenol vẫn cao. Ở một số nơi mức kim loại nặng vẫn cao
hơn mức cho phép. Nên Cục An toàn thực phẩm vẫn nói chưa đạt chuẩn an toàn về
thực phẩm.
Hàm lượng mà những hải sản này nhiễm chưa đủ gây chết
chúng nhưng vẫn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Hải sản đánh bắt về không
bán được và nhất là số mua đông lạnh nay không ai mua.
Tôi thấy tại những bãi ngang người dân vẫn chưa
nuôi. Chuyện làm sạch môi trường cần phải theo dõi, kiểm soát, quan trắc thường
xuyên xem mức độ biến động ra làm sao”.
Sự
lên tiếng mạnh mẽ về môi trường của Thủ tướng
Sau thảm họa môi trường do công ty gang thép Formosa
Hà Tĩnh, gây nên, Chính phủ Việt Nam tỏ ra cứng rắn hơn khi lên tiếng tại những
cuộc họp về môi trường.
Vào ngày 24 tháng 8, ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
nói rằng nay không thể vì lợi ích kinh tế trước mắt mà hy sinh môi trường và cuộc
sống bình yên của người dân. Những đơn vị nào gây ô nhiễm môi trường cần bị
đóng cửa.
Khi đến dự hội nghị xúc tiến đầu tư tại tỉnh ven biển
khu vực nam Trung bộ là Ninh Thuận, ông này cũng lặp lại và phải tiến hành qui
hoạch khu vực bờ biển cho đồng bộ, không để tình trạng băm nát, chia lô bán nền
dọc bãi biển.
Tuy nhiên cũng tại Ninh Thuận, cơ quan chức năng Việt
Nam mà cụ thể là một lãnh đạo vụ chuyên môn của Bộ Công Thương xác nhận dự án
khu liên hợp luyện cán thép do Tập đoàn Tôn Hoa Sen đề xuất tại Cà Ná tỉnh Ninh
Thuận đã được chấp nhận chủ trương đầu tư. Bộ này đang tiến hành bổ sung dự án
vào qui hoạch và hoàn thiện trong tuần lễ qua.
Đây được nói là siêu dự án với số vốn đầu tư hơn 10
tỷ đô la Mỹ, công suất được nói là 16 triệu tấn/năm.
Thông tin còn cho biết thêm là khu liên hợp luyện
cán thép Cà Ná theo kế hoạch dự tính sẽ được tiến hành theo nhiều giai đoạn cho
đến năm 2025-2030.
Cảng cá tại Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. AFP photo
Công nghệ được sử dụng là công nghệ lò cao mà vị Chủ
tịch Hiệp hội Thép hiện nay, ông Phạm Chí Cường cho rằng đối với dạng công nghệ
này không chỉ phải kiểm soát xả thải ra môi trường giống như Nhà máy gang thép
Formosa Hà Tĩnh mà còn liên quan đến khí thải, hiệu ứng nhà kính…
Đối với Nhà máy Formosa Hà Tĩnh sau khi gây ra thảm
họa môi trường tại 4 tỉnh miền Trung như được nói đến lâu nay, vào ngày 28
tháng 6 vừa qua, Phó giáo sư Tiến sĩ Trịnh Văn Tuyên, Viện trưởng Viện Công nghệ
Môi trường thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phát biểu tại hội
nghị do tỉnh Hà Tĩnh tổ chức rằng đã có một nhà máy luyện cốc được xây dựng và
sắp tới một lò khác nữa sẽ ra đời.
Ông này cho rằng Formosa Hà Tĩnh mỗi ngày sản xuất
khoảng 2 ngàn tấn cốc. Cứ mỗi tấn cốc sẽ phát ra chừng 0,6 tấn nước thải như thế
cứ mỗi ngày nhà máy xả ra khoảng 1000-1200 mét khối nước thải ô nhiễm. Nếu số
nước thải này không được xử lý thì sẽ có một tấn phenol thải ra biển mỗi ngày.
Tuy nhiên Phó giáo sư Tiến sĩ Trịnh Văn Tuyên cho rằng
gần đây hệ thống xử lý nước thải sinh hóa của nhà máy đã gần đạt chuẩn, nên chỉ
còn xả ra hơn 1 kilogram phenol.
Tin
tưởng của nhà khoa học
Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ, Phó viện trưởng
Viện Công nghệ Môi trường, tỏ ra tin tưởng về sự giám sát chặt chẽ của các cơ
quan chức năng trong xả thải của những nhà máy như Formosa, bà nói:
“Do yếu tố về giám sát của Việt nam ngày càng chặt
chẽ hơn tôi hy vọng nước biển ngày càng tốt hơn, chất lượng cũng tốt hơn.
Vấn đề này thực ra phải có tác động của rất nhiều yếu
tố về con người, giám sát, về ý thức thải ra nước biển. Việc giám sát chất lượng
nước theo tôi là nên làm và ngày càng phải có tần suất chặt chẽ hơn.
Viện chúng tôi cũng tham gia giám sát môi trường nước
nói chung và cả môi trường không khí”.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại bày tỏ sự lo lắng khi chưa thấy
có biện pháp cụ thể nào được đưa ra, ngoài việc chờ cho biển tự làm sạch. Ông
trình bày:
“Theo tôi bây giờ cần phải có những phương pháp làm
giảm các chất độc đi vì chúng còn nằm đó thì khó lắm. Người ta nói đến việc tự
làm sạch nhưng những chất như cyanur thì tự làm sạch bằng cách nào? Khó lắm.
Phải có tác động gì đó của con người chứ chúng lắng
xuống dưới đáy rồi. Bộ Tài nguyên-Môi trường nói (chất độc) đã lắng xuống dưới
đáy rồi, nằm ở đó. Hình ảnh cho thấy những lớp nhầy, huyền phù dưới đáy. Nếu có
dòng chảy nào thật mạnh đưa chúng đi xa thì may ra; chứ tôi chưa thấy tác động
nào của con người vào cả.
Người ta chỉ quan trắc và xem xét mức phát tán ra.
Người ta cũng chờ đợi thôi chứ chưa thấy tác động nào của con người vào.
Tôi chưa hình dung ra con người phải tác động vào
như thế nào; chưa biết công nghệ nào có thể giải quyết được chất độc lắng xuống
dưới đáy”.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại thì vấn đề là một bài
toán nan giải khi mà cá, hải sản tích lũy độc chất với lượng nhỏ từ từ không đến
mức làm cho chúng chết ngay.
Số này được bắt lên và đưa đến những nơi khác như
ngay cả thủ đô Hà Nội, nơi mà giáo sư tiến sĩ Trần Tứ Hiếu thừa nhận vẫn có người
tiêu thụ cá biển mà không biết rõ xuất xứ từ đâu.
Hầu hết những người dân tại vùng ô nhiễm như Vũng
Áng, Hà Tĩnh thì cho biết dứt khoát họ không hề ăn cá đánh bắt gần bờ về. Dù những
bộ Tài nguyên-Môi trường, Nông nghiệp-Phát triển nông thôn có thông báo gì họ
cũng chưa thực sự tin tưởng. Theo họ nguồn xả thải đã thừa nhận hành vi thải chất
độc ra biển là Formosa cần phải bị đóng cửa để dứt hẳn nguy cơ như hồi đầu
tháng tư vừa qua.
Các nhà khoa học quan tâm thì tiếp tục thắc mắc tại
sao số liệu phân tích từ những mẫu hải sản, nước biển, trầm tích thu được sau
thảm họa môi trường đến nay vẫn không thể tiếp cận được để có thể đánh giá đúng
tình hình xảy ra và góp ý những cách thức cần thiết.
---------------------------
RFA - 2016-08-29
No comments:
Post a Comment