Ngô Nhân Dụng
July 22,
2016
Tình trạng
kinh tế giảm tốc độ ở Trung Quốc hiện nay thường được đem so sánh với kinh tế
Nhật Bản vào thập niên 1990. Chính giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã nói đến
tấm gương sa lầy của kinh tế Nhật để bảo nhau cần phải tránh. Nhưng nỗi khó
khăn ở nước Tàu hiện nay rất khác với hoàn cảnh nước Nhật trước đây một phần tư
thế kỷ và sẽ đưa tới những khó khăn trầm trọng hơn.
Trung
Quốc phát triển mạnh trong ba chục năm qua, nhưng cũng không khác gì “phép lạ
kinh tế” đã diễn ra tại Nhật Bản và Nam Hàn trước đó. Cả ba nước đều bốc lên nhờ
chính sách mở mang công nghiệp hướng vào hàng xuất cảng ngay từ đầu, tiết kiệm
và đầu tư thật nhiều để duy trì tốc độ phát triển cao. Và cuối cùng cả ba đều
phải giảm bớt tốc độ đầu tư cũng như xuất khẩu để cân bằng kinh tế.
Tỷ lệ
tăng trưởng trung bình của kinh tế Trung Quốc là 9% trong ba chục năm từ 1980 đến
2015, so với Nhật là 8.6% trong thập niên 1960, 70; Ðại Hàn Dân Quốc là 7 tới
8% trong thời gian 1970-80. Sau đó, Nhật và Nam Hàn tụt dần xuống mức 3-4%, còn
Trung Quốc hiện đang cố giữ tỷ lệ 6-7%.
Sức
phát triển kinh tế dựa trên việc gia tăng tiền đầu tư, gia tăng lực lượng lao động.
Khi hai yếu tố đó không còn tăng thêm được nữa thì tốc độ sẽ giảm, muốn tiến
thêm phải gia tăng năng suất của người lao động.
Kinh tế
cả ba nước trên đều bắt đầu giảm tốc khi lợi tức bình quân lên tới mức 8,000 mỹ
kim một năm. Ðó là lúc những lợi thế lúc đầu biến mất; lương lao động không còn
thấp mãi trong khi nền công nghiệp đã vận dụng lợi thế đó đến mức tối đa, mức lời
trên những đồng tiền đầu tư giảm dần đến chỗ đứng yên. Trong tình trạng đó, mô
hình phát triển phải thay đổi, mức đầu tư giảm bớt và phải gia tăng năng suất
lao động. Muốn vậy, phải dựa vào kỹ thuật tân tiến, lầy cạnh tranh thúc đẩy
sáng kiến, canh tân. Các ngành canh nông và công nghiệp cũ không thể tăng năng
suất nhanh nữa, nay cần phải hướng về những ngành sản xuất có giá trị gia tăng
cao hơn, phát triển các ngành dịch vụ và thúc đẩy thị trường nội địa. Các nước
Nam Hàn và Nhật Bản đã đi qua con đường đó.
Con đường
dẫn tới khủng hoảng ở Trung Quốc cũng theo đúng những gì xảy ra ở Nhật trong thập
niên 1980, khi tiền bạc được đổ vào thị trường, thổi giá trị cổ phần và nhà cửa
lên cao. Khi trái bong bóng xì hơi ở Nhật đầu thập niên 1990, cả nền tài chánh
mang họa vì những món nợ khổng lồ không trả được, khủng hoảng thị trường địa ốc
và chứng khoán lan tới các ngân hàng và xí nghiệp. Năm 1997 Nam Hàn cũng lâm
cùng hoàn cảnh đó nhưng đã thoát sớm hơn. Ðến nay nước Nhật vẫn còn bị sa lầy
vì cải tổ cơ cấu chậm chạp.
Các món
nợ ở Trung Quốc cũng gia tăng nhanh, từ 150% của tổng sản lượng nội địa năm
2008 đã lên tới 255% năm nay. Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Hoa đang chủ trương
cải tổ cơ cấu, giảm bớt vai trò của các doanh nghiệp nhà nước, cải tổ ngân hàng
và khuyến khích tiêu thụ. Cuộc cải tổ ở Nhật Bản bị trì hoãn hơn 20 năm qua vì
sức đề kháng do những nhóm quyền lợi riêng, thuộc giới doanh nghiệp, ngân hàng,
hàng ngũ công chức với các nhóm quyền lợi riêng. Trung Quốc cũng đang gặp các
chướng ngại giống hệt. Nhưng liệu Trung Quốc có thể rút kinh nghiệm Nhật Bản để
tránh các vết xe đổ của họ hay không?
Trung
Quốc sẽ gặp nhiều chướng ngại hơn Nhật Bản vào thập niên 1990, vì còn thua kém
quá xa trên nhiều lãnh vực.
Ngay từ
sau khi thất trận năm 1945, các công ty Nhật đã cạnh tranh với nhau và trên thị
trường thế giới bằng cách chú trọng vào phẩm chất và cải thiện phương pháp làm việc.
Khi bước vào thời khủng hoảng, hàng hóa Nhật đã tràn ngập thế giới với những
chiếc xe Toyota, Honda hay hàng tiêu thụ mang nhãn hiệu Sony, Panasonic và
Nikon. Cho tới nay, công nghiệp Trung Quốc chưa trình diện thị trường quốc tế một
sản phẩm nào được ưa chuộng và đáng tin cậy như vậy. Trong thập niên 1980 bao
nhiêu nhà kinh doanh Mỹ và Châu Âu đi tìm hiểu để học hỏi phương pháp quản trị
Nhật Bản. Kinh tế Trung Quốc tới nay vẫn chưa có gì để người ngoài bắt chước.
Ngược lại, chính Thủ Tướng Lý Khắc Trường mới than phiền cảnh dân giàu có ở
Trung Quốc kéo nhau qua Nhật mua từ nồi cơm điện (tránh mua hàng mang nhãn hiệu
Nhật làm giả mạo trong nước) đến sữa bột (sợ sữa trong nước có chất độc) và cái
bàn ngồi trong cầu tiêu.
Khi lâm
vào cảnh khủng hoảng thời 1990, nước Nhật đã sống trong chế độ tự do dân chủ được
40 năm, người dân tin tưởng chính quyền và tin lẫn nhau, cho nên đồng tâm chịu
cảnh thiếu thốn hơn trước. Dân Trung Quốc hiện đang sôi nổi tranh đấu đòi quyền
sống làm người, chống cường hào ác bá cướp đất cướp ruộng, mỗi năm hàng trăm
ngàn cuộc biểu tình. Khi kinh tế Nhật giảm tốc, đời sống của người dân đã khá
giả không kém gì các nước Âu, Mỹ; trong khi người dân Trung Quốc trung bình hiện
nay vẫn còn sống thiếu tiện nghi, lợi tức bình quân bằng một phần năm dân Nhật.
Phải mất 20 năm nữa dân Trung Hoa mới theo kịp Nam Hàn và 40 năm để bằng dân Nhật
Bản.
Xã hội
Nhật ổn định hơn. Lương bổng người lao động Nhật không thua quá xa lương giới
quản đốc đến mức khiến người ta ghen tị. Còn Trung Quốc, dù người cầm quyền vẫn
tự xưng là theo chủ nghĩa xã hội, hiện đang nhiều tỷ phú đô la nhất thế giới,
trong khi 200 triệu công nhân từ quê lên tỉnh vẫn sống trong cảnh bấp bênh. Một
vấn đề nan giải ở nước Tàu là lực lượng lao động đang giảm sút, tỷ lệ gia tăng
1.5% trong 10 năm đầu thế kỷ 21 sẽ tụt xuống thành số âm, bớt 0.1% mỗi năm
trong thập niên 2010-2020.
Dân
chúng Nhật cùng chịu đựng cảnh kinh tế suy yếu một cách hòa bình nhờ xã hội có
trật tự, đạo lý Khổng Mạnh vẫn được đề cao, mọi tầng lớp cùng chia sẻ nỗi khó
khăn với nhau. Hơn nữa, nếu người dân Nhật bất mãn, họ biết có thể thay đổi những
người cầm quyền bằng lá phiếu. Dân Trung Hoa nếu chịu cực khổ, bất công, cũng
không được phép nói ra nỗi bất bình!
Giới
lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn chưa nhất tâm về con đường phải theo để
thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế trì trệ. Các cuộc tranh giành quyền lực vẫn
tiếp diễn trong bí mật trong hậu trường, mạnh được yếu thua, trong một xã hội
mà người có quyền chưa bao giờ có thói quen coi trọng luật pháp.
Vì những
nhóm quyền lợi ở Trung Quốc quá mạnh, việc cải tổ cơ cấu không tiến được, nhiều
lúc đi ngược chiều với nhau. Năm ngoái, nhà nước hạ giá nhân dân tệ, gây ra hai
cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán. Tuy đại hội đảng trước đó đề cao việc
nâng vai trò của thị trường thay thế cho nhà nước, nhưng chính họ lại chữa chạy
bằng cách ra lệnh không được bán cổ phần và đem công quỹ ra mua cổ phiếu để bảo
đảm giá không xuống nữa. Năm nay, báo Nhân Dân đăng ý kiến của một “giới có thẩm
quyền” kêu gọi phải ngưng việc bơm tiền cho các xí nghiệp quốc doanh và những
chính quyền địa phương, thì ngay sau đó chính phủ loan báo sẽ chi thêm 5 ngàn tỷ
đồng nguyên để các địa phương xây dựng hạ tầng cơ sở. Chính phủ Mỹ muốn “kích
thích kinh tế” với hàng ngàn tỷ Mỹ kim như vậy sẽ bị quốc hội và dư luận báo
chí đặt câu hỏi ngay. Hiện tượng này phơi bầy mối bất đồng giữa lãnh tụ tối cao
Tập Cận Bình với Thủ Tướng Lý Khắc Trường; cuối cùng Tập Cận Bình đã tập trung
thêm quyền lực.
Tuy giới
lãnh đạo Trung Cộng luôn luôn nói đến việc chuyển từ đầu tư và xuất cảng sang
tiêu thụ nội địa, chuyển từ công nghiệp sản xuất nặng sang hàng tiêu thụ và
phát triển các dịch vụ, nhưng cuộc cải tổ đó vẫn chập chững không tiến được.
Trung Quốc vẫn sản xuất quá nhiều than, xi măng, nhôm và thép trong lúc thị trường
thế giới đang ứ đọng khiến các nước khác đều phản đối, đòi trừng phạt tội bán
phá giá. Những nhà máy thép, nhôm, xi măng của các doanh nghiệp nhà nước thực
ra càng sản xuất thêm nhiều thì càng thua lỗ, nhưng giới lãnh đạo không có cách
nào để chấm dứt cảnh đó.
Khi so
sánh tình trạng kinh tế Trung Quốc hiện nay với tình trạng Nhật Bản từ năm
1990, chúng ta thấy nước Tàu đang gặp khó khăn gấp bội so với nước Nhật 25 năm
trước. Vấn đề không phải chỉ là những món nợ chồng chất sẽ gây khủng hoảng tài
chánh, ngân hàng. Kinh tế Trung Hoa chưa đạt được tới địa vị như kinh tế Nhật
thời đó để có thể chịu đựng trong khi tìm cách thoát được các khó khăn. Dân
Trung Hoa không được tự do, xã hội bất bình đẳng không hòa hợp như xã hội Nhật.
Trong khi đó giới lãnh đạo vẫn chỉ lo tranh giành quyền lực, thiếu công khai
minh bạch cho nên không thể tạo mối đồng tâm trong dân chúng.
Trong
tình trạng bế tắc như vậy, Bắc Kinh lại đang gây thù nghịch khắp nơi với chính
sách bành trướng lãnh thổ và hải phận, bất chấp luật lệ quốc tế. Thái độ cứng đầu
chống lại phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực về Ðường Lưỡi Bò khiến Trung
Cộng càng bị cô lập hơn. Nhưng đó cũng là con đường giới lãnh đạo Cộng Sản
Trung Quốc phải đi theo. Họ cần kích thích óc tự tôn Ðại Hán, làm món ăn tinh
thần của dân chúng thay thế cho chủ nghĩa Cộng Sản lỗi thời. Và làm như vậy
cũng để cho dân quên những khó khăn kinh tế đang tăng lên dần.
No comments:
Post a Comment