Tuần
trước người viết có dịp thăm vùng phi quân sự giữa biên giới Bắc và Nam Hàn.
Người hướng dẫn du lịch là một sĩ quan quân đội Nam Hàn về hưu và nói tiếng Anh
lưu loát. Ông vừa làm việc thiện nguyện tại đài tưởng niệm Chiến Tranh Triều
Tiên ở thủ đô Seoul và vừa làm hướng dẫn viên cho du khách nên có hiểu biết rộng
rãi về lịch sử và thời sự Nam Hàn. Người viết cũng đọc khá nhiều sách vở về đời
sống của người dân Bắc Hàn và hiểu chính sách tẩy não thâm độc của chế độ họ
Kim từ khi sinh ra cho đến tuổi trưởng thành nên không lấy làm lạ. Chuyến xe du
lịch chỉ có bốn người nhưng người hướng dẫn lẫn người viết đều quan tâm đến những
vấn đề lịch sử, chiến tranh, thời sự nên thảo luận sôi nổi suốt đoạn đường từ
thủ đô Seoul lên vùng biên giới.
“Làng
hòa bình” bên kia sông Imjin
Buổi
sáng trời mưa trên sông Imjin, máy hình chụp không rõ lắm nhưng nhờ ống nhòm đặt
trên trạm quan sát dành cho du khách gần vùng phi quân sự nên thấy khá rõ sinh
hoạt của người dân Bắc Hàn dọc biên giới. Nhiều nhóm nông dân đang làm ruộng
trên cánh đồng, một số chăn bò, một số khác cấy mạ. Ngoài ra, bên kia sông còn
một dãy chung cư tương đối sang trọng.
Khu
nhà sang trọng này được Bắc Hàn đặt cho một cái tên rất cao quý: Làng Hòa Bình
(Kijŏng-dong). Khu vực có điện đàng hoàng và mỗi đêm đèn được bật sáng khi trời
vừa tối. Nhưng không lâu sau khi được xây dựng, các cơ quan truyền thông quốc tế
khám phá ra không ai sống trong những khu nhà đó. Nhà không có cửa kiếng và đèn
được mở tắt tự động đúng giờ. Những người duy nhất hoạt động trong khu vực là
phu quét đường, nhưng chính họ cũng chỉ làm công việc tuyên tuyền để gây ấn tượng
“làng Hòa Bình” đang sinh hoạt bình thường.
Cách
một dòng sông hẹp nhưng đời sống vật chất và nhất là tinh thần giữa Nam và Bắc
Hàn xa như thiên đàng và địa ngục. Trong lòng người viết chợt dâng lên niềm
thương cảm cho số phận những con người bất hạnh bên kia.
Với
chính sách trồng người thâm độc của bộ máy tuyên truyền Bắc Hàn, cái nhìn của
người dân Bắc Hàn về mọi lãnh vực đã hoàn toàn bị thay đổi. Họ có thể không còn
biết tủi thân cho cuộc đời nô lệ của mình mà trái lại lại cảm thấy vui và hãnh
diện với “chân lý” “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã đóng đinh vào nhận
thức họ từ khi mới ra đời. Cũng chính “chân lý” đó đã giết khoảng ba triệu người
Việt Nam và đang tàn phá một dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn hiến.
Trong
trường học, học sinh Bắc Hàn được dạy người dân Nam Hàn nghèo đến nỗi không có
nhà để ở phải sống trong gầm cầu và ăn mặc rách rưới. Mỗi khi nhìn sang bờ nam
sông Imjin, người dân Bắc Hàn bị tẩy não cảm thấy xót thương cho dân Nam Hàn khốn
khổ đang chịu đựng “dưới gót giày đế quốc Mỹ”. Họ hãnh diện vì hạt lúa họ gieo,
nắm mạ họ cấy là chính từ bàn tay “độc lập, tự do” của họ chứ không phải “ăn
bám đế quốc Mỹ” như mấy chục triệu người miền Nam. Họ được dạy Bắc Hàn là xứ sở
thần tiên nhất trên đời. Không ít người dân Bắc Hàn sinh ra, lớn lên, già nua
và chết đi trong “niềm kiêu hãnh” đó.
Trong
tất cả các nước từng chịu đựng chiến tranh do chủ nghĩa CS xâm lăng, có lẽ Triều
Tiên là gần gũi và dễ so sánh với Việt Nam nhất nên nghĩ đến Triều Tiên không
khỏi cùng lúc liên tưởng đến Việt Nam.
Bên
kia sông Bến Hải
Đa
số người Việt bên kia sông Bến Hải một thời đã nghĩ về miền Nam giống như người
dân Bắc Hàn đang nghĩ về Nam Hàn. Ngay cả hôm nay không ít trong số trong số họ
vẫn chưa gạt bỏ hẳn nhận thức đó. Hơn Bắc Hàn ở chỗ, tại Việt Nam, không chỉ những
người dân sống trong các vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh mà ngay cả những người
có trình độ học vấn cao, mang hàm phó giáo sư, giáo sư, tiến sĩ cũng bị nhiễm
loại vi trùng “không có gì quý hơn độc lập tự do” tương tự.
Sau
41 năm, một số đã biết đó không phải là sự thật và biết mình bị lừa gạt nhưng vẫn
cố tìm một lý do “khách quan” để biện minh, để lý giải cho nhận thức sai lầm của
mình. Họ không đủ can đảm để chống lại chế độ và cách lý giải dễ dàng nhất là đổ
thừa cho hoàn cảnh, cho số phận, cho lịch sử thay vì cho đảng CSVN.
Khi
được hỏi “Nếu Mỹ không can thiệp bằng quân sự kịp thời, theo anh, liệu
tình huống sẽ ra sao?” Người hướng dẫn chỉ về phía Bắc Hàn và nói “Nếu
Mỹ không can thiệp, miền Nam không thể ngăn chận được CS miền Bắc”, “Rồi
sao?” “Còn sao nữa, hôm nay chỉ có một Triều Tiên Cộng Sản như Bắc Hàn
vậy đó”, anh trả lời nhanh và gọn.
Mỹ
cũng can thiệp để ngăn chận CS tại miền Nam Việt Nam nhưng trong một tình huống
khác. Thế chiến Thứ Hai chấm dứt từ lâu và một cuộc chiến tranh, dù quy ước hay
du kích, cũng không thể thắng bằng chiến lược chỉ tập trung phòng thủ miền
Nam.
Mối
liên hệ giữa Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam
Nếu
không có Chiến tranh Triều Tiên, cục diện chiến tranh Việt Nam có thể đã khác.
Chiến tranh Triều Tiên để lại cho cả Trung Cộng lẫn Mỹ một bài học về giới hạn
sử dụng phương tiện chiến tranh, hỏa lực và nhân lực. Đối với Trung Cộng, Bắc
Hàn và Bắc Việt là vòng đai an ninh (buffer zone) của Trung Cộng và Mỹ chỉ muốn
ngăn chận CS từ vĩ tuyến 17 chứ không muốn tái diễn cuộc chiến trực tiếp với
Trung Cộng dù thắng cũng vô cùng tốn kém một lần nữa.
Dân
Nam Hàn may mắn hơn VNCH vì Kim Nhật Thành sau khi không nuốt được Nam Hàn đã
chấp nhận ngưng chiến. Họ Kim độc tài tàn bạo nhưng còn biết dừng lại, Hồ Chí
Minh và lãnh đạo CSVN thì không. CSVN nhất định “chống Mỹ cứu nước” cho đến khi
nào CS hóa toàn cõi Việt Nam. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai
bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn
nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị đảng CSVN. Bài học chiến
tranh Triều Tiên chưa phai mùi thuốc súng với hơn 3 triệu người thiệt mạng chỉ
trong vòng 37 tháng đánh nhau không làm họ phân vân. Khả năng Mỹ trực tiếp đưa
quân tham chiến và nhiều triệu tấn bom sẽ được ném xuống hai miền không khiến họ
do dự. Lãnh đạo CSVN chỉ cần chiến thắng, dù chiến thắng trên máu xương của đồng
bào ruột thịt, trên xác đám trẻ thơ vừa mới chào đời, trên cảnh tương tàn phân
hóa tận cùng của đất nước.
Trường
hợp giáo sư Oh Kil-nam
Hiện
có mấy chục ngàn người dân Bắc Hàn đào thoát sang Nam Hàn bằng nhiều cách và thật
khó tin nhưng cũng có người từ Nam Hàn đào thoát sang Bắc Hàn. Nỗi tiếng nhất
là trường hợp đào thoát đi và đào thoát về của giáo sư kinh tế Oh Kil-nam.
Oh Kil-nam
Oh
Kil-nam là một trí thức Nam Hàn có đầu óc tả khuynh và tham gia các cuộc biểu
tình chống chính phủ Nam Hàn trong đầu thập niên 1980. Ông ta bị ảnh hưởng bởi
tư tưởng CS khi học tại Đức và những lời tuyên truyền đường mật của Bắc Hàn nên
đã đưa cả gia đình gồm vợ và hai con gái đào thoát sang Bắc Hàn năm 1985 qua
ngã Đông Đức rồi Liên Xô. Khi đến Bắc Hàn, Oh Kil-nam mới biết đó không phải là
thiên đường mà là địa ngục trần gian. Mỗi ngày ông ta phải học tập tư tưởng
Juche của Kim Nhật Thành và ban đêm phải đọc những tin tức, bài vở tuyên truyền
trên đài phát thanh phát sóng sang Nam Hàn.
Năm
sau, 1986, Oh được Bắc Hàn cử sang Đức để tìm cách lôi kéo thêm các trí thức
Nam Hàn khác đang du học tại Đan Mạch. Khi vừa bước xuống phi trường, Oh đi thẳng
đến văn phòng di trú tại phi trường để xin tỵ nạn chính trị mặc dù vợ và hai
con gái vẫn còn bị giữ lại tại Bắc Hàn.
Năm
1992, Oh Kil-nam trình diện tòa đại sứ Nam Hàn và trở lại Nam Hàn. Sự ngu xuẩn
của Oh Kil-nam, như chính ông thừa nhận, khiến ông ta chịu đựng đau khổ đã đành
nhưng kéo theo sự chịu đựng của ba phụ nữ vô tội. Từ khi Oh Kil-man đào thoát
khỏi Bắc Hàn, vợ con ông ta bi tống giam vào trại tập trung và sống trong điều
kiện vô cùng đau khổ. Bà Oh Kil-nam cuối cùng đã chết trong trại tập trung năm
2012 và số phận hai con gái của ông ta cũng bặt tin.
Người
viết chợt nhớ đến câu nói của Yuri Alexandrovich Bezmenov, một chuyên viên tình
báo Liên Xô đào thoát sang phía tự do, diễn tả tình trạng tinh thần của những
người bị tẩy não: “Ngay cả mang anh ta tới tận Liên Xô và chỉ cho anh ta thấy
trại tập trung, anh ta cũng không tin… cho đến lúc anh ta bị đá ngay vào đít,
khi bị giày đinh đạp lên anh, rồi anh ta mới hiểu. Nhưng không phải trước đó.
Đó là thảm kịch của tình trạng bị băng hoại về đạo đức trong con người.”
Câu nói của Yuri Alexandrovich Bezmenov là một chứng minh hùng hồn cho trường hợp
của “nhà trí thức” Oh Kil-nam. Ông ta chắc đã đọc rất nhiều sách vở về CS nhưng
không thấy được bộ mặt thật của chế độc độc tài dã man Bắc Hàn cho đến khi đặt
chân sang Bình Nhưỡng.
Những
Oh Kil-nam Việt Nam nên sống ở “Làng Hòa bình” một thời gian
Việt
Nam có rất nhiều Oh Kil-nam.
Sự
kiện “Tôn Nữ Thị Ninh chống Bob Kerrey” vừa qua cũng cho thấy tầng lớp “băng hoại
về đạo đức” như Alexandrovich Bezmenov phát biểu còn dẫy đầy tại Việt
Nam.
Giống
như Oh Kil-nam Nam Hàn đã phó mặc số phận vợ con trong trại tập trung Bắc Hàn,
những Oh Kil-nam Việt Nam là những người có kiến thức nhưng thiếu đạo đức. Đạo
đức mà họ có chỉ là đạo đức giả. Tại sao? Họ học các nguyên tắc dân chủ, từng sống
trong chế độ dân chủ, rao giảng các lý thuyết dân chủ cho học trò, khoe khoang
kiến thức về dân chủ nhưng lại cong lưng làm nô bộc cho một chế độ độc tài lạc
hậu đã bị xếp vào quá khứ đau thương tang tóc của nhân loại. Không có tầng lớp
xăng nhớt này, bộ máy già nua CS sẽ phải ngừng hoạt động.
Nhiều
tác giả phê bình bà Tôn Nữ Thị Ninh và phe cánh đề nghị họ nên mở mắt nhìn xa
sang các nước tự do, dân chủ và thịnh vượng để biết Việt Nam cần phải vượt qua
và đi lên với phần đông nhân loại. Không. Bà Tôn Nữ Thị Ninh và phe cánh đâu cần
phải nhìn sang châu Âu, Nhật Bản, Nam Hàn vì họ đã học ở đó, đã sống ở đó hay
đã đến đó nhiều lần. Nhưng họ có mắt mà không thấy. Bởi vì, nỗi khổ đau và sự
chịu đựng của con người không thể thấy được bằng đôi mắt thường mà bằng đôi mắt
lương tri.
Và
người viết chợt nghĩ, biết đâu nếu họ sống trong “Làng Hòa Bình” của Kim
Jong-un một thời gian với hy vọng như Yuri Alexandrovich Bezmenov nhận xét cho
đến khi “bị đá ngay vào đít, bị giày đinh đạp lên” như Oh Kil-nam, đôi mắt
lương tâm và đạo đức trong con người họ sẽ có dịp mở ra.
1.7.2016
No comments:
Post a Comment