Tuesday, June 21, 2016

BIỂN ĐÔNG : QUỐC GIA NÀO CHIẾM GIỮ NHỮNG GÌ Ở TRƯỜNG SA ? (Alexander L. Vuving, Tạp chí Diplomat)





Alexander L. VuvingTạp chí Diplomat
Ka Đặng chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Jun 1, 2016
.
Tranh chấp trong vùng Biển Đông. Ảnh: The Economist

Các bài đàm luận liên quan đến những tranh chấp trên Biển Đông luôn tràn đầy cảm xúc một cách dễ hiểu. Nó được xem là lý do tại sao sự bàn cãi về vấn đề này nên được dựa trên những sự kiện thực tế. Và như Bill Hayton đã lưu ý, “những bằng chứng không đáng tin cậy đang làm lưu mờ các cuộc đàm luận quốc tế về những tranh chấp ở Biển Đông.” Quả thật, dường như đôi khi có một bức màn dày đang che giấu sự thật về Biển Đông.

Chẳng hạn như, hãy xem xét lập luận cho rằng Trung Quốc, không phải là kẻ gây hấn ở Biển Đông, thực ra họ chỉ đơn thuần đáp trả các hành động khiêu khích đơn phương của những quốc gia khác khác ví dụ như Việt Nam. Kết luận này dựa trên một số bằng chứng vẫn còn hồ nghi, trong đó có ý kiến cho rằng Việt Nam đã “tăng gấp đôi chủ quyền của mình” ở Biển Đông trong vòng 20 năm qua. Thậm chí còn có giả định rằng Việt Nam chiếm giữ 24 thực thể vào năm 1996 (thực ra dữ liệu thực tế hiển thị trên bản đồ thường xác định là 22), ý kiến về sự gia tăng gấp đôi con số trên là điều sai lầm. Nguồn dẫn của tuyên bố này – từ lời công bố trước Quốc hội của một quan chức quốc phòng cấp cao của Hoa Kỳ vào năm 2015 – cho thấy trong thực tế việc xác nhận 48 tiền đồn trên những thực thể được Việt Nam chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa, là hơn 48 thực thể. Việc lấy khoảng thời gian 20 năm cũng không hoàn toàn chính xác bởi vì cách đây 21 năm Trung Quốc đã chiếm đoạt bãi Vành Khăn.

Nhưng xét trên phạm vi rộng hơn, vấn đề nằm ở chỗ ta vẫn chưa thực sự xác định rõ được những quốc gia nào đang chiếm giữ những gì tại quần đảo Trường Sa. Thật không khó để tìm kiếm những bài báo – và thậm chí đôi khi là những tư liệu, bản đồ và dữ liệu đang được xuất bản – mà nội dung chứa đựng các thông tin không chính xác, mâu thuẫn và thỉnh thoảng không đáng tin cậy. Bài viết này đang cố gắng giải quyết vấn đề nêu trên, bằng cách nhìn nhận ra quốc gia nào thực sự chiếm hữu những gì trên quần đảo Trường Sa. Để xem xét những vấn đề này, tôi đã tham khảo ý kiến từ các nguồn khác nhau, nhiều trong số đó là căn bản, và đã được phỏng vấn một số người am hiểu về các vấn đề tương tự. Các thông tin ghi nhận cũng đã được kiểm tra cẩn thận.

Việt Nam
Việt Nam hiện đang chiếm giữ 21 thực thể tại quần đảo Trường Sa, với một thực thể bị đánh mất vài ngày sau cuộc đụng độ đẫm máu vào ngày 14 Tháng Ba năm 1988 với Trung Quốc tại Bãi đá Gạc Ma (Johnson South Reef). Một danh sách đầy đủ kèm theo tên gọi và tọa độ của những thực thể này đã được công bố trong số ra ngày 22 tháng Tư năm 1988 trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của chính phủ Việt Nam [thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam]. Đó là:
  1. Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay),
  2. Đá Nam (South Reef),
  3. Đá Núi Thị (Petley Reef),
  4. Đảo Sơn Ca (Sand Cay),
  5. Đảo Nam Yết (Namyit Island),
  6. Đá Lớn (Discovery Great Reef),
  7. Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island),
  8. Đá Cô Lin (Collins Reef),
  9. Đá Len Đao (Lansdowne Reef),
  10. Đảo Sinh Tồn Đông (Sin Cowe East Island),
  11. Đá Lát (Ladd Reef),
  12. Đảo Trường Sa/Trường Sa Lớn (Spratly Island),
  13. Đá Tây (West Reef),
  14. Đảo Trường Sa Đông (Central Reef),
  15. Đá Đông (East Reef),
  16. Đảo Phan Vinh (Pearson Reef),
  17. Đá Tốc Tan (Allison Reef),
  18. Đá Núi Le (Cornwallis South Reef),
  19. Đá Tiên Nữ (Pigeon or Tennent Reef),
  20. Đá/Bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef),
  21. Đảo An Bang (Amboyna Cay).

Trong một tấm bản đồ (APMSS) đính kèm với Bản Chiến Lược An Ninh Hàng Hải Châu Á-Thái Bình Dương năm 2015, của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (DoD) đã xác định được 34 tiền đồn quân sự trên 21 thực thể này. Một “tiền đồn quần sự” có thể là toàn bộ một hòn đảo hay chỉ đơn thuần là một tháp canh. Chẳng hạn như, Bãi đá Đông, được tính ba lần vì thực thể này không lớn như một hòn đảo nhân tạo đơn lẻ nhưng được đánh dấu tại ba địa điểm bởi bốn căn cứ bát giác, mỗi nơi rộng khoảng vài trăm mét vuông.

Southwest Cay – Đảo Song Tử Tây. Ảnh: Getty Images

Việt Nam cũng có một hệ thống quan trắc tương tự, nhưng nó chỉ đếm có 33 tiền đồn quân sự (phía Việt Nam gọi là điểm đóng quân hay điểm đảo). Tại sao có sự khác biệt này? Tiền đồn quân sự DoD nê ra là một ngọn hải đăng trên bãi đá Tiên Nữ. Việt Nam không xem nó như một tiền đồn vì không có quân đội đóng quân tại đó – nó được điều hành bởi một công ty dân sự thuộc Bộ Giao Tthông Vận tải. Hiện chưa rõ ngọn hải đăng này được xây dựng từ khi nào, nhưng tất cả 33 tiền đồn khác của Việt Nam đã được thành lập trước năm 1989.

Bản đồ APMSS cũng chỉ ra rằng Việt Nam có 14 tiền đồn nữa ở quần đảo Trường Sa. Đem bản đồ này so sánh với những gì tồn tại trên thực tế, chúng ta có thể thấy rằng đó là 14 cơ sở canh phòng (Việt Nam gọi là nhà giàn) đang hoạt động tại sáu bãi cạn nằm về phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Việt Nam đã bắt đầu thiết lập các cơ sở lâu dài trên Bãi Tư Chính (Vanguard Bank), Bãi Vũng Mây (Rifleman Bank), và Bãi Phúc Tân (Prince of Wales Bank) vào năm 1989, trên Bãi Phúc Nguyên (Prince Consort Bank) năm 1990, và trên Bãi Quế Đường (Grainger Bank) và Bãi Huyền Trân (Alexandra Bank) vào năm 1991. Những cơ sở này có diện tích từ 100 đến 250 mét vuông, và đứng trên bãi cạn với độ sâu nằm giữa 7 và 25 mét dưới mặt nước biển.

Mặc dù vậy thì các bãi cạn nằm trong quần đảo Trường Sa này đang là một vấn đề gây tranh cãi. Bởi vì những tấm bản đồ của Trung Quốc nhóm nhiều bãi cạn lại với nhau theo những đặc tính chung trên quần đảo Trường Sa và xem từng nhóm này như thể đó là một cấu trúc địa hình nổi trên mặt nước. Kết quả là, những con số mà phía Trung Quốc đưa ra về lượng thực thể do Việt Nam chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa là khoảng giữa 27 và 30. Việt Nam lập luận rằng bởi vì các bãi cạn này nằm sâu dưới nước và trong phạm vi 200 hải lý (nautical miles) tính từ đường cơ sở của Việt Nam, chúng thuộc về thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam theo quy định tại Điều 76 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Theo UNCLOS, các thực thể ngầm không thể bị xâm phạm bằng việc chiếm hữu hoặc điều gì khác.

Mười một trong số các thực thể mà Việt Nam nắm giữ tại quần đảo Trường Sa có những phần đất tự nhiên nhô cao hơn 100 mét tại thời điểm thủy triều lên cao. Những thực thể này là Đảo Song Tử Tây, Đá Nam, Đảo Sơn Ca, Đảo Nam Yết, Đảo Sinh Tồn, Đảo Sinh Tồn Đông, Đá Len Đao, Đảo Trường Sa, Đảo Trường Sa Đông, Đảo Phan Vinh, và Đảo An Bang. Bảy thực thể khác – Đá Núi Thị, Đá Lớn, Đá Cô Lin, Đá Tây, Đá Đông, Đá Tiên Nữ, và Bãi Thuyền Chài – được báo cáo có những phần tự nhiên nhô cao khỏi mặt nước khi thủy triều lên. Những thực thể này có thể hội đủ điều kiện để được gọi là “hòn đảo” hay “bãi đá” và có từ đó có thể tạo ra các vùng lãnh hải phù hợp với UNCLOS. Ba thực thể – Đá Lát, Đá Tốc Tan, và Đá Núi Le – chỉ nổi lên khỏi mặt nước vào những thời điểm thủy triều hạ. Theo ngôn ngữ của UNCLOS, chúng có thể được gọi là những thực thể “nâng lên khi thủy triều hạ”, mà không được xem như một vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế, hay thềm lục địa.

Philippines
Phương tiện truyền thông của Philippines thường báo cáo rằng họ có chín hoặc mười thực thề do Philippines nắm giữ tại quần đảo Trường Sa. Thực thể thứ mười là Irving Reef (Philippines gọi là Balagtas), nằm giữa bãi Loaita và hòn đảo West York. Không tồn tại cơ sở xây dựng nào trên bãi đá ngầm này, nhưng các nguồn tin chưa được xác minh báo cáo rằng tàu hải quân Philippines thay phiên nhau canh phòng thực thể này. Nếu điều này là đúng, thì tình trạng của Irving cũng tương tự như một số thực thể bỏ trống khác đang được theo dõi bởi các tàu của Trung Quốc và Việt Nam.

Theo đó, chín thực thể do Philippines nắm giữ ở quần đảo Trường Sa là:

  1. Northeast Cay (Filipino: Parola),
  2. Thitu Island (Pagasa),
  3. Loaita Cay (Panata),
  4. Loaita Island (Kota),
  5. West York Island (Likas),
  6. Flat Island (Patag),
  7. Nanshan Island (Lawak),
  8. Second Thomas Shoal (Ayungin),
  9. Commodore Reef (Rizal).

Danh sách phía trên không khớp với các danh sách phổ biến hơn về những thực thể mà Philippines chiếm giữ tại khu vực của Panata. Hầu hết các dẫn xuất từ Philippine thông dịch tên tiếng Anh của Panata là Lankiam Cay, một cồn cát nhỏ nằm cách 8 hải lý về phía Đông–Đông Bắc của Đảo Loaita. Hầu hết các tài liệu quốc tế liệt kê Lankiam Cay và Đảo Loaita là hai thực thể riêng được Philippines chiếm giữ tại Bãi Loaita. Nhưng bản đồ APMSS cho thấy không có tiền đồn nào tại Lankiam Cay. Thay vào đó, nó chỉ ra tiền đồn thứ hai của Philippine nằm tại Bãi Loaita ở một rạn đá ngầm chưa được xác định về phía Tây Bắc của đảo Loaita. Một số dẫn xuất từ Trung Quốc và Việt Nam xác định thực thể do Philippines chiếm giữ này là Loaita Nan. Tuy nhiên, hệ tọa độ thông thường gắn với Loaita Nan (10042.5 ‘ Bắc, 1140 19,5′ Đông) dính với rạn đá ngầm ở rìa Tây của bãi Loaita, nơi không có cơ sở xây dựng nào được nhìn thấy từ hình ảnh vệ tinh trong Google Maps. Đồng thời, các cơ sở nhỏ có thể được nhìn thấy tại Loaita Cay (100 44 ‘ Bắc, 1140 21′ Đông), mà đây có thể được coi như là một phần của Loaita Nan nhưng thực sự nó nằm về phía Đông thông qua một kênh sâu bảy mét. Loaita Cay cách 6,5 hải lý về phía Tây Bắc của đảo Loaita.

Pagasa Island (Thitu Island). Ảnh: AFP

Giữa năm 1970 và năm 1978, Philippine đã đến chiếm giữ bảy thực thể trong quần đảo Trường Sa, với sự đóng quân của quân đội trên năm hòn đảo. Hòn đảo Flat, nằm cách khoảng 6 hải lý về phía Bắc của đảo Nanshan, được cai quản bởi một đơn vị đồn trú tại căn cứ Nanshan đến năm 2011, khi một số cơ sở có hình dáng như vỏ ốc được xây dựng trên đảo Flat như một nhà ở hiện hữu lâu dài hơn. Một tài liệu được công bố bởi một mạng truyền hình địa phương trong năm 2004 báo cáo rằng chỉ có bốn binh sĩ đang canh phòng cả hai thực thể này từ căn cứ của họ tại Nanshan. Một cách thức tương tự có thể được áp dụng cho các thực thể tại bãi Loaita, với đảo Loaita có chức năng làm khu vực của các đơn vị đồn trú cho đến khi một cơ sở bổ sung khác được xây dựng trên Loaita Cay. Một số nguồn tin cho biết Lankiam Cay từng có một bờ biển dài hơn năm héc ta trong quá khứ, nhưng những cơn sóng mạnh mẽ đến từ một trận bão đã quét sạch bờ cát của hòn đảo, để lại đằng sau cấu trúc calcarenite có thể được nhìn thấy khi thủy triều hạ.

Ngày đầu tiên khi Philippines chiếm giữ bãi đá Commodore vẫn chưa được xác định rõ. Quân đội Philippines đã đặt chân lên rạn đá ngầm này vào tháng 8 năm 1980 và xóa bỏ sự đánh dấu của Malaysia đã được xác định ở đó một vài tháng trước, nhưng vẫn không thể biết được liệu họ có ở lại hay rời khỏi sau khi tới hoạt động. Một báo cáo cho rằng họ đã bỏ rơi nó từ năm 1986, nhưng nó hiện tại đang bị chiếm giữ bởi một đội quân.

Năm 1999, Philippines chiếm giữ bãi Second Thomas bằng cách cho tàu chở xe tăng BRP Sierra Madre đến và sử dụng nó như một căn cứ trú ẩn cho một đơn vị đồn trú nhỏ. Đáng chú ý, Lầu Năm Góc không xem căn cứ này của Philippines tại bãi Second Thomas như một tiền đồn, mặc dù các quan điểm trái ngược khác nổ ra rộng rãi ở Philippines. Bãi đá này cũng chỉ là thực thể chỉ nhô cao khi thủy triều hạ trong số các thực thể khác được chiếm giữ bởi Philippines. Tất cả tám thực thể khác đều có thể được nhìn thấy nổi trên mặt nước khi thủy triều lên.

Còn tiếp…

*
*
Alexander L. VuvingTạp chí Diplomat
Ka Đặng chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Jun 9, 2016

Một cái nhìn sâu hơn về vấn đề cơ bản chưa được thấu hiểu.


Đài Loan
Hòn đảo Itu Aba (tiếng Trung Quốc: 太平島) là thực thể duy nhất mà Đài Loan chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa. Đó cũng là thực thể có diện tích tự nhiên lớn nhất trong quần đảo này. Đài Loan đôi khi được cho là đang nắm giữ hai thực thể tại đây. Điều này có thể được suy ra từ các báo cáo của Đài Loan về việc xây dựng các cơ sở (năm 1995 và 2004) và sự đặt chân chính thức của quốc gia này (năm 2003 và năm 2012) lên bãi Ban Than. Tuy nhiên, mô tả chính xác nhất về tình trạng hiện tại của Ban Than là “chưa được chiếm giữ”.

Ban Than có bờ biển dài hơn 100 mét, nằm cách khoảng 2,5 hải lý từ Itu Aba và khoảng 4 hải lý từ đảo Sơn Ca do Việt Nam chiếm giữ. Lầu Năm Góc xác định không có tiền đồn nào trên Ban Than, và không có cơ sở nào có thể được nhìn thấy trong hình ảnh vệ tinh gần đây cũng như các hình chụp của rạn đá ngầm này. Các nguồn tin từ địa phương nói với tôi rằng cả hai quân đội Đài Loan và Việt Nam thỉnh thoảng đã mang vật liệu vào Ban Than và sử dụng chúng như là mục tiêu cho các cuộc tập trận bắn đạn thật của họ.

Trung Quốc
Ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã chiếm giữ sáu thực thể từ năm 1988 và bãi đá Vành Khăn từ năm 1995. Bảy thực thể được Trung Quốc chiếm giữ ở quần đảo Trường Sa là:

  1. Subi Reef (渚碧礁Zhubi Jiao),
  2. Gaven Reef (南薰礁Nanxun Jiao),
  3. Hughes Reef (东门礁 Dongmen Jiao),
  4. Johnson South Reef (赤瓜礁 Chigua Jiao),
  5. Fiery Cross Reef (永暑礁 Yongshu Jiao),
  6. Cuarteron Reef (华阳礁 Huayang Jiao),
  7. Mischief Reef (济礁 Meiji Jiao).

Tháng Năm năm 2015, khi Lầu Năm Góc cho biết có tám tiền đồn của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa, một số người nghĩ rằng cái thứ tám là Bãi Eldad. Nhưng bản đồ APMSS ra đời vào ba tháng sau đó cho thấy có hai tiền đồn tại Bãi Vành Khăn, và không có cái nào tại Bãi Eldad. Đây là một thực tế thường bị bỏ qua.

Ngoài ra, nhiều người đã xác định nhầm một số thực thể như các Bãi Eldad, Whitsun, Ladd, và McKennan là do Trung Quốc chiếm giữ. Ví dụ như, hai bản đồ phổ biến ra đời vào năm 2015 của Reuters và AFP vẫn thể hiện vài thông tin không chính xác về các Bãi Eldad và Lankiam Cay. Tình trạng nhầm lẫn của các Bãi Eldad, Whitsun, và Ladd nguyên do là nó được suy ra từ các báo cáo về việc Việt Nam đã chống lại sự đổ bộ của quân đội Trung Quốc lên Bãi Eldad vào năm 1990, Đá Ba Đầu tháng 3 năm 1992 và Đá Lạc tháng Bảy năm 1992. Đá Ba Đầu đã được gọi theo tên tiếng Việt cho Bãi Whitsun, nhưng Đá Lạc bị nhầm tưởng là Ladd Reef (Đá Lát theo tiếng Việt), mà thực ra nó đang được Việt Nam chiếm giữ. Trên thực tế, Đá Lạc là tên tiếng Việt cho Gaven South Reef, một thực thể nâng lên khi thủy triều hạ nằm cách 2 hải lý từ bãi Gaven.

Một tấm ảnh do Philippines cung cấp hồi tháng Tư cho thấy Trung Quốc đang xây cất trên các bãi đá xuanh quanh quần đảo tranh chấp ở Trường Sa tại Biển Đông. Photo: Armed Forces of the Philippines/European Pressphoto Agency

Bản đồ APMSS cho thấy không có thêm tiền đồn nào nữa của Trung Quốc trên bất kỳ các rạn đá ngầm khác, ngoại trừ bảy tiền đồn được liệt kê ở trên. Một số báo cáo trích dẫnnguồn tin tình báo của Philippine vào tháng Sáu năm 2015 đã cáo buộc rằng Trung Quốc khai hoang đất trên Bãi Eldad. Tuy nhiên, các nguồn tin riêng biệt tại địa phương sau đó xác nhận rằng Eldad cũng như Whitsun, McKennan, và Gaven South vẫn chưa bị chiếm giữ.
Tuy nhiên, tình trạng chưa bị chiếm giữ của các thực thể này là rất mong manh. Cả hai Bãi Eldad và Whitsun đều có giá trị chiến lược. Chúng tạo thành vành đai phía Đông của hai nhóm chính trong quần đảo Trường Sa – Bãi Tizard và Union. Chúng dần dần “trở thành” các hòn đảo. Theo chân những con thuyền đầu tiên đi đến vào giữa những năm 1990 cho thấy rằng chúng là những thực thể chỉ nổi lên khi thủy triều hạ. Nhưng ngày nay mỗi rạn đá ngầm này có 100 mét đụn cát được cho là đã phát triển lên khu vực tăng thêm về chiều cao này. Một đụn cát nhỏ hơn cũng đã xuất hiện trên Bãi McKennan, mà thường bị nhầm lẫn với Bãi Hughes nhưng thực ra nó nằm cách 1 hải lý về phía Tây. Nhiều câu chuyện trong các phương tiện truyền thông xã hội tại Việt Nam nói rằng các Bãi Eldad, Whitsun, và McKennan thường là khu vực yên ắng dành cho “trò chơi” mèo-bắt-chuột giữa Trung Quốc và Việt Nam, với thể lệ là một bên tìm cách đặt chân lên những ‘hòn đảo mới’ này trong khi bên kia cố gắng gây khó khăn cho những nỗ lực đó.

Một tình trạng tương tự đang xảy ra tại Bãi South Luconia (tiếng Mã Lai gọi là Beting Patinggi Ali) nằm cách 84 hải lý ngoài khơi Sarawak của Malaysia. Cả hai phía Trung Quốc và Malaysiađều xác nhận rằng các tàu thuyền của Trung Quốc đã liên tục có mặt tại đây kể từ năm 2013. Thú vị thay, một trong những thực thể tại bãi này, Luconia Breakers (tiếng Mã Lai gọi là Beting Hempasan Bantin), dường như đã thay đổi trạng thái từ một vùng chìm khi thủy triều dâng trở thành một “hòn đảo nhỏ”, nói theo cách của Thủ tướng Malaysia tại Sở Shahidan Kassim của Thủ tướng Chính phủ. Hình ảnh từ vệ tinh và các ảnh chụp trên không cho thấy một cồn cát dài khoảng 70 mét trên thực thể này. Chúng cũng hiển thị hình ảnh của các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc, với những con tàu Hải quân lớn hơn của Malaysia, đang neo đậu gần “hòn đảo mới” này.

Một số học giả cho rằng Luconia Breakers đã được khai hoang thành một hòn đảo nhân tạo của Malaysia vào thời điểm nào đó trước năm 2009. Tuy nhiên, lập luận này là vô nghĩa. Là quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế EEZ qua rạn đá ngầm này, Malaysia có mong muốn mạnh mẽ trong việc giữ cho thực thể này chìm trong nước. Một phán quyết năm 2012 của Tòa án Công lý Quốc tế nói rằng “thực thể chìm dưới nước khi thủy triều dâng không thể nào bị chiếm đoạt”. Sau sự việc đó, Luconia Breakers có thể được bảo vệ một cách hợp pháp khỏi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc cho đến khi nó vẫn còn chìm dưới nước.

Một số người đã đặt câu hỏi rằng liệu sự nhô cao nhanh chóng như thế có thực sự đã xảy ra một cách tự nhiên trong một khoảng thời gian ngắn như vậy không. Nhưng điều này hầu như khó xảy ra. Sự xuất hiện của những cồn cát nhỏ đã được biết tới trong vài thập kỷ qua ở một số rạn đá ngầm ở quần đảo Trường Sa, với các Bãi Eldad, Whitsun, McKennan, và Ban Than là một số ví dụ nổi bật. Với sự giúp sức của các con sóng và ngọn gió, trầm tích san hô có thể hình thành nên các đụn cát đang phát triển hoặc bị rửa trôi – như là trường hợp của Bãi Lankiam Cay – mà không có bất kỳ chuyển động nhô lên nào của phần đá ngầm.

Bằng chứng thủy văn do Philippines nêu ra tại Tòa án Trọng tài Thường trực cho thấy rằng ba trong số bảy thực thể do Trung Quốc nắm giữ, bao gồm Fiery Cross, Cuarteron và Johnson South, có một phần nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều dâng cao, nhưng bốn thực thể khác, bao gồm cả Subi, Gaven, Hughes, và Vành Khăn là những bãi chìm dưới mặt nước khi thủy triều lên cao ở thể tự nhiên ban đầu trước khi chúng được cải tạo từ năm 2013 đã biến tất cả bảy thực thể này thành các hòn đảo nhân tạo.

Malaysia
Giống như trường hợp của Philippines, số lượng các thực thể do Malaysia nắm giữ tại quần đảo Trường Sa thay đổi khác nhau tùy thuộc vào cách định nghĩa. Hầu hết đều cho rằng có khoảng năm hoặc tám thực thể. Malaysia có quân đội đóng quân và có các cơ sở được xây dựng trên năm thực thể sau:

  1. Swallow Reef (tiếng Mã Lai gọi là Layang-Layang), từ năm 1983,
  2. Kiêu Ngựa (Ubi), từ năm 1986,
  3. Mariveles Reef (Mantanani), từ năm 1986,
  4. Erica Reef (Siput), từ năm 1999,
  5. Investigator Shoal (Peninjau), từ năm 1999.

Một số nguồn tin còn liệt kê thêm ba thực thể khác, bao gồm các Bãi Dallas (Laya), Royal Charlotte (Semarang Barat Besar), và Louisa (Semarang Barat Kecil), được chiếm giữ bởi Malaysia. Tuy nhiên, nhiều nguồn tin hiểu biết và đáng tin cậy gần đây đến từ Malaysia, Brunei, và Hoa Kỳ đã xác nhận rằng trên thực tế không có quân đội nào đóng quân trên ba thực thể này.

Malaysia được cho rằng đã “chiếm” Bãi Dallas giống như cách mà Philippines đã làm với hòn đảo Flat. Quân đội gần đó tại Bãi Ardasier, cách khoảng 3 hải lý từ Bãi Dallas, có lẽ đã xem xét và ghé thăm nơi dây một cách thường xuyên. Mặt khác, các Bãi Royal Charlotte và Louisa hầu như khó có thể được xem là “đã bị chiếm giữ”. Mặc dù có một ngọn hải đăng trên Royal Charlotte, các du khách nói rằng nó đã không còn hoạt động nữa và cũng không có cơ sở nào khác trên rạn đá ngầm này. Các du khách cũng thấy rằng Louisa cũng đang bị bỏ hoang mà không có bất kỳ cơ sở nào khác hơn là một ngọn hải đăng có hình tiêm bi, mà nó thì cũng không hoạt động. Trong số tám thực thể, các Bãi Swallow, Mariveles, Erica, Royal Charlotte, và Louisa có một số phần tự nhiên nhô lên khi thủy triều dâng cao, trong khi Ardasier, Dallas, và Investigator chỉ nhô lên khi thủy triều hạ. Những ngọn hải tiêu trên Royal Charlotte và Louisa có thể đã được xây dựng bởi Malaysia trong những năm 1980 như một hình thức khẳng định chủ quyền đối với hai rạn đá ngầm này.

Brunei
Thực thể duy nhất ở quần đảo Trường Sa mà Brunei tuyên bố chủ quyền là Louisa. Theo các báo cáo chính thức của Malaysia và Brunei, một Giao dịch Thư tín được ký kết trong năm 2009 đã “cuối cùng đã nêu rõ sự phân định lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế” giữa hai nước. Các thỏa thuận dứt khoát cho thấy rằng Brunei có chủ quyền trên hai lô dầu khí mà bãi Louisa nằm trong đó.

Mặc dù Malaysia vẫn chưa chính thức bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với thực thể này, nhưng thỏa thuận kia với Brunei đã làm suy yếu đáng kể tuyên bố đó của Malaysia. Khi cả Malaysia và Brunei đã tuyên bố chủ quyền của họ trên Louisa trên cơ sở quyền quốc gia ven biển, và sự xác nhận lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Brunei từ phía Malaysia là tương đương với việc dâng quả bóng Louisa cho khung thành Brunei. Tuy nhiên, điều này dường như chỉ là một sự hiểu ngầm chứ không phải là một thỏa thuận chính thức. Các trao đổi thư tín vẫn chưa được công bố công khai, và thậm chí nếu nó sẽ được công bố công khai, có nhiều khả năng cũng sẽ không có đề cập nào liên quan tới Louisa. Điều này nhất định cũng giống như trường hợp với khu vực Limbang, hay các tranh chấp lãnh thổ khác giữa Brunei và Malaysia.

Với tất cả các chú ý ập trung vào những tranh chấp trên Biển Đông, vẫn còn quá ít sự rõ ràng về các thực tế nền tảng như quốc gia nào sở hữu những gì. Như Bill Hayton đã minh chứng, có rất nhiều tài liệu lịch sử đã “sử dụng các cơ sở tin cậy từ đó có thể viết nên lịch sử đáng tin”. Hy vọng rằng bài viết này là một bước đi đúng hướng để vén tấm màn dày che giấu sự thật về những tranh chấp này.

_______

Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm châu Á–Thái Bình Dương Daniel K. Inouye chuyên Nghiên cứu lĩnh vực An ninh. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của cá nhân và không phản ánh quan điểm của Chính phủ Hoa Kỳ, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, và Trung tâm châu Á–Thái Bình Dương.

2007-2016 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info







No comments:

Post a Comment