Monday, February 29, 2016

CỘNG SẢN VIỆT NAM SẼ KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC BÌNH YÊN (Nguyên Thạch - Danlambao)






Đảng CSVN hãy xem lời tựa của bài viết như một lời khẳng định của tác giả. Khi dân chúng lầm than, khi triệu triệu tiếng ta thán của muôn dân cao vút tận trời cao thì đó là dấu hiệu ngày tàn của một chế độ. Thuyền nổi nhờ dân, thuyền chìm cũng do dân, đó là định luật muôn đời. Ngọn lửa bạo tàn sẽ không bao giờ thiêu đốt hết được muôn triệu tấm lòng yêu nước. Đảng CSVN há quên rằng Ý Dân là Ý Trời đó sao?.
 
Hãy "Ôn cố để tri tân", hãy nhìn gương của những hôn quân để lấy làm bài học kinh nghiệm. Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc của ngày xưa những tên lạy giặc cầu vinh, rước voi dày mả tổ. Những tên Hán tặc trá hình Hồ Quang - Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, ĐM, Nguyễn Phú Trọng... của hôm nay rồi cũng sẽ không thể nào thoát khỏi khối sức mạnh vô biên của cả dân tộc và lịch sử cũng sẽ ghi khắc ô danh muôn đời.
 
Gương lịch sử chống Tàu của bao tiền nhân anh hùng lẫm liệt vẫn còn đó, Việt tộc hôm nay vẫn còn đây dẫu phải trải qua bao ngàn năm gian lao giữ nước. Hãy bỏ ra khoảnh khắc để đọc lại sử tích của Đại đế Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh vào năm 1789 (Kỷ Dậu)

Vua Lê chạy sang Trung Quốc, cầu viện Thanh Cao Tông (Càn Long)

Vua Lê chạy sang Trung Quốc, cầu viện Thanh Cao Tông (Càn Long). Vị hoàng đế già đồng ý và cuối năm 1788 sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Việt Nam với danh nghĩa phù Lê, vào chiếm đóng Thăng Long. Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn cố thủ chờ lệnh. Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Bắc Bình vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Với lý do vua Lê đã bỏ nước và rước giặc về, để có danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
 
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ngoài ra còn có một đội tượng binh với 200 voi chiến. Vua Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
 
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình. Biết quân Thanh dự định ngày 16 tháng giêng (âl) sẽ từ Thăng Long xuất quân, ông quyết định quân Tây Sơn sẽ đánh tan quân Thanh và tiến vào Thăng Long trước ngày mùng 6 tháng giêng (âl). Ông hạ lệnh cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước và tuyên bố đanh thép: Ngày mùng 7 Tết sẽ đánh vào Thăng Long mở tiệc ăn Tết khai hạ. Sau đó, 5 đạo quân thần tốc tiến ra Thăng Long.

Đêm 30 tháng chạp Mậu Thân tức 25-1-1789: Quân Tây Sơn nhanh chóng vượt bến đò Gián Khẩu (Ninh Bình), đánh tan quân của Trấn thủ Sơn Nam Hoàng Phùng Nghĩa.

Trưa ngày mùng 5 tháng giêng (ÂL), Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, trên đường chạy liên tiếp bị quân Tây Sơn mai phục chặn đánh. Cuối cùng, Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống chạy thoát về Trung Quốc.
 
Vua Quang Trung dẫn đầu đạo quân chiến thắng, tiến vào Thăng Long trước sự hân hoan đón chào của nhân dân. Nha cua cho yết bảng an dân, cho quân Thanh ra hàng. Chiến dịch lịch sử đại phá 29 vạn quân Thanh diễn ra nhanh chóng và oanh liệt. (1)

Và đây là lời của nữ lưu Bà Triệu:

"Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!"
 
Đảng CSVN đừng tưởng rằng với binh đông, đạn bạo, với côn an trùm khắp sẽ là "lá chắn" trung thành. 19 tên trong Bộ chính trị cộng 200 tên trung ương ủy viên há là sức mạnh?. Không, ngàn lần không, chúng bây không là gì cả khi bầu nhiệt huyết yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng bào là những người cha mẹ anh chị em của Quân đội và Công an và khi sự tự ái của họ trỗi dậy thì mấy trăm tên Thái thú có là bao. Cầu viện Tàu cộng ư?. Ai chấp nhận cho bọn Tẩu làm việc đó?. Bộ cả thế giới chết hết rồi sao?. Bọn phản quốc đừng hy vọng hảo huyền vì bản thân thằng Tàu cộng, nó lo cho thân nó còn chưa xong thì sức đâu mà đùm đuề cho những đứa con hoang với lòng lan dạ sói.
 
Kiếp chó hoang thì có gì tự hào ngoài thân bại danh liệt, con cháu sẽ cúi đầu tủi hổ nhục lây. Làm chi chuyện một lần sinh ra để ngàn đời bị thế gian nguyền rủa?. Hỡi đám hôn quân, hôn quan phải sớm biết được THẾ NƯỚC LÒNG DÂN mà quay đầu là bờ.
 
90 triệu người dân quốc nội tới một lúc nào đó không còn chịu nổi nữa thì sẽ tràn ra khắp nơi mà bao vây chúng bây, chúng bây có cái gan mà bắn được bao nhiêu?. Rồi sẽ phải đối mặt với bao nhiêu hận thù sau đó?. Nhà tù nào có thể chứa hết lượng dân khổng lồ này?. Khi chúng bây dồn dân vào con đường cùng không còn gì để mất thì người ta sẽ chấp nhận tất cả để mạng đổi mạng, răng đổi răng và đó là chuyện đương nhiên, chẳng có gì khó hiểu.
 
Hơn 4 triệu rưỡi người Việt ở nước ngoài cùng lớp hậu duệ kế tiếp, lực lượng này sẽ chẳng bao giờ chấp nhận hòa hợp hòa giải (HHHG) như chúng bây đã từng mụ mị. Họ là những tiếng nói khắp 5 châu để tố giác chúng bây, là lực lượng vận động các quốc gia sở tại tẩy chay chúng bây, là nguồn lực vô hạn ủng hộ quốc nội về nhiều mặt, trong đó tài chánh là mạch máu cho dòng thác cách mạng tiến lên. Đảng cộng sản cùng guồng máy tà quyền của chúng bây sẽ hoàn toàn bị dồn vào tình thế "TỨ BỀ THỌ ĐỊCH".
 
Hỡi bọn giặc Bắc phương hãy nhớ về lịch sử mà nhận thức cho đúng đắn truyền thống chống ngoại xâm của Việt tộc mà liệu thân, chớ tham lam mê muội mà chuốc lấy tai tiếng nhục nhã bởi lẽ: "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây"? câu nói của anh hùng nước Nam Nguyễn Trung Trực.

Đền thờ Nguyễn Trung Trực

Lời di chúc của tiền nhân

VUA TRẦN NHÂN TÔNG
(1258-1309)

Các Người chớ quên!
Nghe lời Ta dạy
Chính nước lớn
Làm những điều bậy bạ
TRÁI ĐẠO LÀM NGƯỜI
Bất nghĩa bất nhân
Ỷ nước lớn
Tự cho mình cái quyền ăn nói!
Nói một đường làm một nẻo! Vô luân!
Chớ xem thường chuyện nhỏ ngoài biên ải.
Chuyện vụn vặt thành lớn chuyện: NGOẠI XÂM!

Họa Trung Hoa!
Tự lâu đời truyền kiếp!

Kiếm cớ này bày chuyện nọ! TÀ MA!
Không tôn trọng biên cương theo quy ước
Tranh chấp hoài! Không thôn tính được ta
Chúng gậm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo
Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy!

Gặm nhấm dần
Giang Sơn ta nhỏ lại
Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di

Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới
Canh cánh bên lòng “ĐẠI SỰ QUỐC GIA”!
Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VIỆT
Biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa!

VẬY NÊN
CÁC NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN
KHÔNG ĐỂ MẤT
MỘT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI
HÃY ĐỀ PHÒNG
QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA!

LỜI NHẮN NHỦ
CŨNG LÀ LỜI DI CHÚC
CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA.

*

VUA LÊ THÁNH TÔNG
(1473)

“Nếu các ngươi đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ
làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.


Nam Quốc Sơn Hà
Lý Thường Kiệt
 

 
 
 
 

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà nam đế cư 
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư 
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? 
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư! 

Dịch thơ:

Sông núi nước nam 
Sông núi nước Nam vua Nam ở 
Rành rành định phận tại sách trời 
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ? 
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời! - (Bản dịch của Trần Trọng Kim)

Chú giải:

1. Vào năm 1077, hơn 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (Việt Nam). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giành lại giang sơn, giữ vững bờ cõi Đại Việt.

2. Thiên Thư mà bài thơ này nhắc đến chính là sách Thượng Thư hay Kinh Thư (là bản Thượng Thư mà Khổng Tử đã san định). Trong Thượng Thư Đại Truyện có kể về Việt Thường Thị giao hảo với nhà Chu, cống chim Trĩ.

Tiền nhân Việt Nam từ đó khẳng định Việt và Hoa là hai xứ khác nhau, hai đất nước khác nhau. Tuy nhiên bài thơ này chưa nêu bật được tinh thần quốc gia, mà chỉ mới xem Nam quốc sơn hà là của Nam đế. Nhưng bất luận thế nào thì bài thơ cũng được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. (2)
 
Nghe rõ chưa hỡi bọn Ba Đình phản quốc cùng lũ bành trướng láu lếu Bắc triều?.


_________________________________________

Ghi chú:







No comments:

Post a Comment