NHÂN DỊP HÀ NỘI ĐÓN TẬP
CẬN BÌNH, NHẮC LẠI MỐI HỌA “HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ”
Dương
Danh Dy
Cuộc họp bí mật
Thành Đô tháng 9/1990 làm VN đổi hướng
BBC
giới thiệu một phần bài tư liệu của ông Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự
Việt Nam tại Quảng Châu về các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới Hội nghị bí mật
Thành Đô năm 1990 giữa một số lãnh đạo hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt
Nam.
Nguyên
nhân từ phía Việt Nam:
Ngưòi
lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta, người quyết liệt chống bọn bành trướng bá quyền
Trung Quốc qua đời tháng 7 năm 1986, tạo điều kiện cho Ban lãnh đạo Việt nam nhất
là ngưòi lãnh đạo chủ chốt mới, đại biểu cho xu hướng cần phải bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc, để thoát khỏi vũng lầy Campuchia, thế bị bao vây cấm vận,
phải căng mình ra đối phó trên nhiều mặt trận…để có cơ hội thuận lợi tiến hành
thực hiện bước chuyển đổi chiến lược “cải cách, đổi mới”.
Ban
lãnh đạo và người lãnh đạo chủ chốt mới của Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng:
Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Gorbachev là xét lại, chỉ có Ban lãnh đạo Đảng
Cộng sản Trung Quốc mới kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ
nghĩa Mác Lênin.
Qua
thực tiễn “cay đắng” về nhiều mặt, đã thấy tác hại rất lớn của “cái bẫy”
Campuchia, ban lãnh đạo mới quyết tâm thay đổi chính sách về vấn đề CPC mạnh
hơn trước.
Việt
Nam đang tiến hành cải cách và đổi mới, đã thu được nhiều thành quả rõ rệt, nếu
chưa bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc sẽ bị những hạn chế và gặp những
khó khăn nhất định về thu hút đầu tư và mở rộng mậu dịch đối ngoại.
Nguyên
nhân từ phía Trung Quốc:
Trong
thời gian dài hơn 10 năm, mặc dù Ban lãnh đạo Bắc Kinh đã dùng mọi thủ đoạn xấu
xa, tàn bạo nhất hòng làm cho Việt Nam suy sụp, phải khuất phục Trung Quốc,
nhưng Việt Nam vấn đứng vững, đặc biệt là những thành quả rõ rệt thu được sau mấy
năm chúng ta tiến hành chính sách đổi mới, mở cửa đã khiến họ phải thay đổi
cách nhìn và đối sách cũ đối với Việt Nam.
Ngoài
ra những chuyển biến trong thái độ của Mỹ đối với Việt Nam và chuyển biến bước
đầu trong quan hệ Việt Mỹ đã khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy nếu tiếp tục kéo
dài căng thẳng với Việt Nam sẽ làm cho Mỹ được hưởng lợi.
Trung
Quốc đang bị cấm vận sau sự kiện Thiên An Môn, bình thường hoá quan hệ với Việt
Nam sẽ tạo thêm thế.
Thấy
rõ những điểm yếu của ban lãnh đạo Việt Nam, chủ động chấp nhận bình thường hoá
với Việt Nam lúc này sẽ thu lợi nhiều hơn trong chính sách đối với Việt Nam và
trên quốc tế.
Nguyên
nhân quốc tế:
Trung
Quốc thông qua Liên Xô gây sức ép với Việt Nam, phải nhân nhượng, chấp nhận các
yêu cầu của Trung Quốc
Các
nước XHCN Đông và Trung Âu không còn nữa, Liên Xô mất quyền lãnh đạo, sắp tan
rã, Việt Nam đứng trước nguy cơ mất chỗ dựa về nhiều mặt (chính trị, kinh tế,
quốc phòng) cần phải tìm chỗ dựa mới, và Trung Quốc là đối tượng thích hợp nhất.
Do đó cần phải tích cực đáp ứng một số yêu cầu của phía Trung Quốc nhằm nhanh
chóng bình thưòng hoá quan hệ với họ.
Hội
nghị bí mật Thành Đô:
Hội nghị Thành Đô họp
theo 'lý luận Đặng Tiểu Bình' dù ông này không có mặt
Thời
gian họp và những nội dung thảo luận.
Do
không thể trực tiếp tiếp cận những tư liệu do phía ta nắm giữ nên người viết
đành phải dựa vào một số cuộc hỏi chuyện với đồng chí phiên dịch của đoàn và đồng
chí Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương đảng, thành viên của đoàn.
Ngoài
ra đồng chí Đinh Nho Liêm chủ động cho biết một số tin liên quan và một số ít
tư liệu đã được công khai của phía Trung Quốc, đó là Nhật ký của Lý Bằng (Bản
tiếng Trung, Mạng “Nhân Dân” Trung Quốc ngày 5/1/2008) bài viết của Lý Gia
Trung (lúc đó là Tham tán chính trị ĐSQ Trung Quốc), nguồn “Hà Bắc tân văn
võng” ngày 30/10/2007 đưa lại tin của “Báo cuộc sống ngưòi già” Trung Quốc ) và
bài viết của Trương Thanh (lúc đó là Vụ phó Vụ Á châu 1 Bộ Ngoại giao Trung Quốc,
người tham dự hội nghị. Nguồn “Tạp chí “Thế giói trí thức” số 24 năm 2004, đang
lại trên “Tân Hoa văn trích” số 5/2005)).
Để
đỡ nhắc đi nhắc lại, khi dưới đây ghi “Nhật ký Lý Bằng”… bạn đọc nên nhớ cả nguồn
đã ghi trên và đặc biệt là cuốn “Hồi ký Trần Quang Cơ” bản năm 2001 và bản năm
2003.
Theo
các tư liệu đó thì diễn biến và kết quả đạt được của hội nghị như sau:
“Chiều
ngày 28/8/1990 Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Trương Đức Duy nhận được chỉ thị
trong nước, chuyển lời tới TBT Nguyễn Văn Linh:
“TBT
Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh TBT Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưỏng Đỗ Mưòi thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3- 4 tháng 9 năm
1990, cũng hoan nghênh Cố vấn Phạm Văn Đồng cùng đi.
Hồi
ký Trần Quang Cơ cho biết Trương Đức Duy nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể đến
hội nghị gặp anh Tô. Do Á vận hội sắp cử hành tại Bắc Kinh, để tiện bảo mật,
nên sắp xếp hội đàm tại Thành Đô, Tứ Xuyên” (Lý Gia Trung: “Nội tình gặp gỡ
Thành Đô…” “Hà Bắc tân văn võng” ngày 30/10/2007).
“Nhật
ký Lý Bằng” cho biết:
“Sáng
ngày 3/9/1990 chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ chiều tới Thành Đô, hai giờ
chiều đoàn Việt Nam tới nhà khách Kim Ngưu, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân đón
tiếp họ tại phòng khách, rồi cuộc hội đàm bắt đầu.”
"Mặc
dù biểu thị nguyện vọng muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia, nhưng lại
biểu thị không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia.”
Nguyễn
Văn Linh có bài nói dài mà hiện nay chưa tìm đọc được vì cả hai phía đều không
công bố, bài nói của Giang Trạch Dân tại hội nghị cũng như “Kỷ yếu hội nghị”
cũng trong tình trạng như vậy.
Lý
Bằng nhận xét:
“Xem
ra trên vấn đề Campuchia Nguyễn Văn Linh chỉ muốn làm một cái biểu thị nguyên tắc
mà đặt trọng điểm vào mặt bình thường hoá quan hệ Trung Việt.”
“Hội
đàm kéo dài tới 8 giờ tối. 8: 30 mới bắt đầu tiệc tối . Tại bàn tiệc tôi và đồng
chí Giang Trạch Dân lại lần lượt làm công tác Đỗ Mưòi và Nguyễn Văn Linh.
Sáng
ngày 4 tháng 9, chúng tôi cùng các đồng chí Việt Nam tiếp tục họp. Đến đây những
vấn đề mà hội nghị đề xuất có thể nói là đã tương đối đạt được đồng thuận,
tương đối trọn vẹn đầy đủ. Quyết định khởi thảo một kỷ yếu hội nghị.
Vào
2 giờ 30 phút chiều, hai bên cử hành lễ ký kết, lần lượt do TBT và Thủ tướng mỗi
bên ký. Đó là bước ngoặt có tính lịch sử trong quan hệ Trung Việt. Chuyên cơ Việt
Nam bay về nước ngay trong ngày.”
Bài
viết của Trương Thanh nói:
“Đây
là lần gặp gỡ đầu tiên giữa những ngưòi lãnh đạo hai nuớc Trung Việt sau hơn 10
năm, hai bên tiến hành hội đàm cấp cao. Trước tiên Giang Trạch Dân biểu thị:
quan hệ Trung Việt đã xấu đi hơn 10 năm. Hai bên chúng ta nên quán triệt lý luận
Đặng Tiểu Bình “kết thúc quá khứ, mở ra tương lai”.
Vừa
là đồng chí vừa là anh em
"Ngoài
việc khôi phục quan hệ hữu hảo láng giềng hai nước Trung, Việt ra, phía Trung
Quốc đã đề xuất ý kiến quan trọng giải quyết chính trị vấn đề Campuchia: Việt
Nam rút quân toàn bộ, hội đàm với các phái Campuchia, tiếp nhận văn kiện khung
do năm nước thưòng trực Hội đồng Bảo an chế định, tham gia hội nghị quốc tế
Paris về Campuchia, đó là then chốt của việc hai nước Trung Việt khôi phục quan
hệ hữu hảo.
TBT
ĐCSVN Nguyễn Văn Linh cám ơn bài phát biểu quan trọng của Giang Trạch Dân, ông
biểu thị, quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam
và Trung Quốc là “vừa là đồng chí vừa là anh em” như lãnh tụ Hồ Chí
Minh đã nói. Trung Quốc đã ủng hộ to lớn cho cuộc chiến tranh cứu nước
của Việt Nam.
"Đáng tiếc là Lê
Duẩn người lãnh đạo tiền nhiệm đã thi hành chính sách sai lầm khiến người ta
khó lý giải. Hai nước Việt Nam, Campuchia xảy ra 10 năm chiến loạn, khiến quan
hệ Trung Việt bị phá vỡ nghiêm trọng, nhân dân Việt Nam vô cùng đau lòng.
Bây giờ chúng tôi quyết
tâm sửa chữa chính sách sai lầm trước đây, khôi phục tình hữu nghị truyền thống
giữa hai nước, hai Đảng, cùng đi về con đường XHCN tươi đẹp.”
Về
việc giải quyết chính trị vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đều biểu
thị “chúng tôi tiếp nhận văn kiện khung,
kết thúc cuộc xung đột Việt Nam, Campuchia.”
Qua
hai buổi thảo luận, chiều ngày 3 và sáng 4, người lãnh đạo hai nước đã đạt được
sự đồng thuận quan trọng, ký văn kiện “Kỷ
yếu hội đàm”.
TBT
Giang Trạch Dân biểu thị: bắt đầu từ hôm
nay, hai nước Trung Việt “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại;Tương kiến nhất tiếu mấn
oan cừu” (thơ cổ: Qua hết sóng gió anh em vẫn còn, gặp nhau cười một cái là quên
ân oán )”
Giang
Trạch Dân nói thêm:
“Các nước Phương Tây
rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí tới đây cho đến nay các nước
không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề
này. Họ cho rằng Việt Nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
họp với nhau bàn cái gì đây? Vì vậy chúng tôi giữ kín chuyến đi này. Trong tình
hình quốc tế hiện nay, nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không
có lợi cho chúng ta.”
Trước
khi đánh giá hội nghị xin nói thêm một nhận xét quan trọng: Giang Trạch Dân và
Lý Bằng đã “tỏ ra” rất kính trọng ba vị Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười
trong đoàn Việt Nam, coi họ thuộc thế hệ cha chú của mình.
Xin
nêu một ví dụ : để tỏ lòng kính trọng ba vị ấy, tại nơi họp họ đã bố trí mỗi vị
ở riêng một biệt thự cách nhau khá xa. Xin hỏi mấy ông già bảy mươi, tám mươi
này sau khi họp mệt nhoài về liệu có thể tranh thủ gặp nhau để hội ý thêm được
không?
Ngoài
ra việc vì sao Đặng Tiểu Bình không đến dự hội nghị cũng cần được đánh giá
thêm.
Ông
ta sợ bị phía Việt Nam trực tiếp phê phán, để làm phía Việt Nam dịu bớt thái độ
khi bàn về bình thường hoá quan hệ, để phía Việt Nam dễ tiếp thu dàn xếp của
Trung Quốc.
Tổng
bí thư Đỗ Mười
...Chấp
nhận thoả thuận Thành Đô, Đại hội VII ĐCSVN, họp từ ngày 17/6 đến 27/6/1991 đã
gạt đồng chí Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
không để ông giữ bất kỳ chức vụ nào về đảng và nhà nước.
Các ông Lê Đức Anh và
Đỗ Mười lên làm lãnh đạo Việt Nam sau cuộc họp Thành Đô
Đại
hội đã bầu Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười làm Tổng Bí thư. Sau đó ít lâu Uỷ
viên Bộ Chính trị Lê Đức Anh được bầu làm Chủ tịch nước. Như đã nêu trên, tháng
10/1991 hội nghị quốc tế về CPC họp tại Paris giải quyết về cơ bản vấn đề
Campuchia.
Và
chỉ sau khi hai sự kiện lớn đó đã diễn ra theo đúng yêu cầu của phía Trung Quốc,
ngày 5/11//1991 (tức là hơn một năm sau Hội Nghị Thành Đô) phái đoàn Việt Nam
do TBT Đỗ Mười và Chủ tịch HĐBT Võ Văn Kiệt mới được mời tới Bắc Kinh, đặt dấu
mốc cho việc chính thức bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Tuy
nhiên tại hội nghị này Lý Bằng đã “thẳng thừng” nêu ra nhiều vấn đề tồn tại
trong quan hệ hai nước, trong đó có vấn đề Việt Nam nợ Trung Quốc, vấn đề của
cái gọi là “nạn kiều” từ Việt Nam về Trung Quốc… (Nhật ký Lý Bằng) trong khi
phía Việt Nam không có động thái gì.
Hơn
20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, ngưòi ta sẽ thấy “ngộ”
ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến “kết quả” của Hội nghị, những
người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng
tình.
Bước
đầu, xin mạnh dạn công khai một số “yếu kém” của phía chúng ta, cũng như xin thẳng
thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất
nước.
Nêu
ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm
bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết
những “dại khờ, non yếu” của chúng ta, không vạch trần những “mưu ma chước quỷ”
của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm
tưởng họ là những “đồng chí cộng sản”, những người đang cùng chúng ta xây dựng
“chủ nghĩa xã hội”… thì sẽ là một “nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn” đối với
dân tộc.
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy, hiện sống
tại Hà Nội. BBC sẽ đăng tiếp phần ông viết về 'hậu quả lâu dài của Hội
nghị Thành Đô'.
*
*
Dương
Danh Dy
Nhà nghiên cứu Trung
Quốc
25
tháng 10 2014
Các ông Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
...Hơn
20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ”
ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị, những
người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng
tình.
Bước
đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng
thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất
nước.
Nêu
ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm
bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết
những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của
kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng
họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.
Ngoài
những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài
trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân
tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến
tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây
ra.
Phía
Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn
văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Đó
là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên
dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống
tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh
Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.
Không
dám hé một lời
Chúng
ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ
bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai
nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với
Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu 'lấy
làm tiếc' về hành động phi nghĩa của mình?
Nhượng
bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được 'vị
thế chính nghĩa' trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung
Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta,
tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.
Làm
cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc:
'Việt Nam xua đuổi người Hoa', 'Việt Nam xâm lược Campuchia'… là đúng, việc thế
giới 'lên án, bao vây cấm vận Việt Nam' là cần thiết, việc Trung Quốc 'cho Việt
Nam một bài học' là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn
trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng.
Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm
với Việt Nam.
Cho
tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người
viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện
cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền
thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả
tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần
thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị
lãng quên.
Cần
phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc
vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm
hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân
Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là 'vô
ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát'...
Theo
tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới
“80% dân mạng Trung Quốc - tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và
người có học - tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.
Cảm
tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh
dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây
dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.
Chấp
nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài
đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội
8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một
trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế,
có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là
một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản,
là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”...
Có
thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp
cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc
Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm
hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.
Ban
lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc
dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình
thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ
còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời
lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc
Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)
Cần
nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch
đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công
tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng
(IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.
Việc
tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ
gần đây nhất.
Đây
là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng
ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng
phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người
lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ
thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.
Có
thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng
định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can
thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.
Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung
Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị
lên án. Phải chăng đã xuất hiện 'Nhóm lợi ích thân Trung Quốc' trong Đảng ta?
Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.
Bài
học bị dắt mũi nhớ đời
Không
thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ
“cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.
Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn
mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã...
Vì
vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu
trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần
ghi nhớ những bài học nào?
1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như
không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là
về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối
thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất
sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
Thắng lợi của Công
đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường
Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử
tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ
chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta
thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước
đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.
Trong tình hình như thế mà lại chủ trương 'bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc', 'Mỹ và Phương Tây muốn
cơ hội này để xoá cộng sản'.
"Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn
thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng
minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)
Cần
thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải
nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế
nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã
không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững
từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang
tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất
chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.
Không
thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa
xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ
lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng
sản Trung Quốc.
Do
đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm
vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao
trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.
Họ
ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy
nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những
không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc 'dắt mũi' kéo theo,
thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan
hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
Không
thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã
hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong
đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô,
trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5
nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.
Chẳng
lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?
2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà
lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất,
không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần
mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.
Người
viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có
tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải
cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn
rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là
chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất
mang đầy chất lừa bịp 'vì chủ nghĩa xã hội', 'vì đại cục' của Trung Quốc, thậm
chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
Bài
học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy
rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của
ngưòi 'láng giềng bốn tốt', của 'những đồng chí' luôn rêu rao '16 chữ vàng'
đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam
chúng ta hiện nay và trong tương lai.
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy, hiện sống
tại Hà Nội. Mời quý vị đọc bài trước 'Họp
Thành Đô 'nguyên nhân và diễn biến'
---------------
Tin
liên quan
No comments:
Post a Comment