Phạm Kỳ Đăng
26/11/2015
Người
Việt ra năm châu lo sợ khá nhiều thứ. Lo sợ về thân thế: trong một đoàn khách
quốc tế nhập cảnh sang Singapore, sang Mỹ, sang Anh, hay sang các nước châu Âu,
thế nào người Việt, kể cả những thương gia hay quan chức giàu có, cũng bị soi
xét kỹ lưỡng hơn. Nếu căng hơn, bị đưa vào phòng kiểm soát, chắc hẳn người mình
bị lục vấn bằng những câu hỏi khó nghe hơn so với chuẩn mực giao tiếp văn minh
phổ quát. Cái tiếng xấu của ăn cắp, rửa tiền, đưa người, mại dâm, trồng cỏ, được
tung lên TV, báo chí ở một số nước châu Á – chính truyền thông nhà nước chẳng
buồn gột rửa mà còn đưa tin lại khá rõ – tại một số nước châu Âu cũng tới tai
nhà chức trách bằng những thông báo nội bộ hay hướng dẫn thi hành.
Có hẳn
là lúc nào người dân Việt cũng phải so đầu rụt cổ kém cạnh nhà người ta không?
Trong một trường hợp tôi nghĩ rằng không. Giả tưởng rằng sắp tới đây xảy ra một
vụ bắt cóc do nhà nước khủng bố tiến hành, lọt vào trong đám con tin có cả người
Việt mang hộ chiếu công vụ hay du lịch, người đồng bào nhà mình, so với các
công dân Anh, Pháp, Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha v.v. thế mà lại có cơ may được thả
ngay tức thì, ít ra sớm nhất. Các chiến binh bịt mặt nạ đen hung ác sẽ rất thất
vọng vì bắt nhầm vào đó người Việt Nam. Hay là vui vẻ cũng nên. Nếu rảnh rỗi
phiên gác có lẽ chúng còn mời người Việt „kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ“
nán lại, hút shisha, chén chú chén anh, chúc tụng và tuyên dương chiến tích anh
hùng thắng đế quốc nữa cũng nên. Nếu quả có thế, hồn thơ của nhà thơ tuyên giáo
Tố Hữu đang mơ ngủ ở thế giới bên kia, có thể mãn nguyện ngẩng cao đầu thêm vài
lần nữa.
Những kẻ
khủng bố theo Hồi giáo cực đoan đưa người Việt Nam ra khỏi tầm ngắm còn vì nhiều
lẽ. Người dân Việt Nam xét ra không phải là tín đồ cuồng tín của một tôn giáo
tương tranh. Đất nước đó, qua sự nhập khẩu một giáo điều lạ và suy tôn thành một
tôn giáo mới, đã bình định mọi tín ngưỡng và tôn giáo cổ truyền. Nhà Phật gì mà
bày tượng lãnh tụ trên điện thờ? Nhà sư gì mà vào Quốc hội phát biểu như tuyên
giáo chính tông? Còn thường dân vào lễ chùa véo oản, sờ đầu tượng cốt khấn lộc
cầu tài hay vận may cá cược. Cho nên, ở người Việt không tiềm ẩn một kẻ đối đầu
về tín ngưỡng. Và họ lại nghèo, người Việt nghèo là một chuyện không cần phải
che đậy. Sang Trung Đông làm việc không ít người Việt Nam làm khách thợ. Bức
tranh về họ, những người công nhân lam lũ ở những miền Trung Đông không kích
thích lòng ghen tuông hay đố kỵ, càng không sự thù ghét trong ý thức các chiến
binh Hồi giáo. Thường thói đời bắt cóc người nghèo khó đòi được tiền chuộc.
Nhưng lý do cơ bản nhất khiến cho chiến binh Daesh chùn tay, kể cả khi tóm được
đại gia Việt Nam giàu có đeo lủng lẳng dây chuyền vàng, đồng hồ Rolex, thì
chúng cũng thừa biết, họ là những kẻ lang thang không nhà nước. Gợi rung động từ
phía nhà nước Việt Nam cũng tựa cầu mưa trên sa mạc, đòi nhà nước Việt Nam tiền
chuộc khác nào mấy như đập vào vách đá.
Thế đấy,
trong nhiều nguyên cớ được suy xét, lý do cơ bản nằm trong quan hệ chiếm hữu,
chủ nô giữa nhà nước CHXHCN Việt Nam với nhân dân của mình. Con người không rẻ,
chính cái nhà nước ấy áp cho người dân của họ một cái giá vô cùng rẻ mạt. Sự hạ
giá trường kỳ và hệ thống tư cách con người, tệ hơn thời phong kiến, thực dân,
trải qua bao biến thiên đầy chiến tranh bom đạn, liên tục diễn ra ở hai quá
trình vận động lớn song hành đã khuynh đảo và tàn phá cấu trúc xã hội suốt hơn
70 năm qua.
Ở quá
trình thứ nhất, được gọi là xóa bỏ tư hữu (Cải cách ruộng đất, Hợp tác hóa, Cải
tạo công thương nghiệp, Đánh tư sản miền Nam) người dân bị tước đoạt phương tiện
sống, bị tước bỏ luôn tư cách cá nhân, cá thể. Rồi chính con người của tập thể
bị hạ giá nhiều cấp nữa trong quá trình thứ hai: cải biến con người thành công
cụ. Sự tước đoạt nhân quyền
và nô dịch hóa người dân do Đảng và Nhà nước CS tiến hành qua nhiều khâu cải tạo,
giáo dục, và hội nhập cưỡng bách. Giáo dục, Đào tạo và Nghiên cứu phải
căn cứ và nhắm đích tư tưởng Marx, Lenin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh sau
này. Các tổ chức Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội, mặt trận
giả hiệu khác cũng do Đảng bày đặt ra nhằm củng cố vai trò độc tôn lãnh đạo của
Đảng. Tuy nhiên người dân Việt Nam trong thực tế suốt đời bị chối bỏ quyền làm
công dân: quyền tự do bầu cử, tự do thành lập đảng phái, hiệp hội, tự do báo
chí. Có thể nói nhà nước CS loại bỏ hầu
hết người dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội. Đó là nhà nước
khống chế, trấn áp, bóc lột và chăn dắt. Nhà nước cho đến hôm nay hoàn toàn vắng
công dân, và nhà nước đó, không qua chế độ tuyển cử do dân bầu, cũng chẳng có
luôn dân tịch. Dưới đám quan chức quyền lực của Đảng, tồn tại thần dân, người
ta hay nói, phó thường dân. Và thần dân phần lớn vốn sợ hãi, dửng dưng hầu như
chưa dám ý thức đảm nhận quyền công dân của mình.
Xã hội
Việt Nam hôm nay tiềm ẩn trong mình những nguy cơ xung đột lớn, về lâu dài chưa
chắc bộ máy an ninh và quân đội có thể tiếp tục trấn áp. Bối cảnh xã hội với
phá sản, thua lỗ, nợ công, thất nghiệp, bán thân, bần cùng hóa, tham nhũng, cướp
đất, và cướp của giết người, v.v. không hợp làm hậu trường cho lễ đài ăn mừng
thắng lợi của nhà nước. Lãnh thổ, tài nguyên mất dần vào tay Bắc Kinh; biển đảo,
lãnh hải cho dân chài mưu kế sinh nhai cũng bị Tàu cộng dần dà chiếm nốt. Việc kéo dài vai trò độc tôn của
Đảng bằng cách phối hợp toàn diện với chính cái Đảng cộng sản Trung quốc tham
tàn sẽ chỉ gây uất ức, phẫn nộ và đẩy nhanh Đảng vào vị trí thù địch dân tộc.
Những động thái tăng cường trấn áp, sách nhiễu người bất đồng chính kiến và dân
oan mất đất, gần đây hơn một bước giả dạng côn đồ hành hung, trả thù, giam cầm
tù nhân chính trị và bắt thêm người đấu tranh dân chủ còn cho thấy bộ mặt khác
của nhà nước với người dân Việt: bộ mặt khủng bố.
Đàn áp
mạnh tay như vậy với cớ ổn định chính trị, tuy nhiên nhà nước này đang hồi hết
sức nguy ngập. Chỉ thấy từ trước đến nay nhà nước kết tội bỏ tù người chống đối
bằng điều luật 258 „lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của
nhà nước“. Trong tương lai gần, chính vì thế sẽ có rất nhiều người dân kết tội
nhà nước với những kẻ cầm quyền đứng đầu về tội lạm dụng quyền con người của
nhân dân trong nhiều thập niên.
Và bây
giờ, xung quanh cuộc thảo luận về môn học lịch sử, người nhà nước đề nghị bỏ hẳn
bộ môn Sử. Có vẻ cái nhà nước đó muốn thủ tiêu lịch sử trong đó có cái lịch sử
bất chính danh của mình. Khốn nỗi, xóa lịch sử cũng không dễ như xóa nợ.
Bỏ môn
Sử hay dạy Sử kiểu tích hợp theo ý Đảng đằng nào cũng thế cả, giáo dục và
nghiên cứu kiểu „định hướng“ sẽ xuất ra lò dư luận viên khả dĩ nhiều hơn. Tất cả
những môn học thuộc về khoa học nhân văn, xã hội, và tinh thần ở Việt Nam, cấp
độ phổ thông cũng như nghiên cứu, thiết nghĩ đều phải được biên soạn và giảng dạy
phi chính trị thì không hẳn đúng, nhưng ngay từ bây giờ nhất thiết phi
tuyên giáo.
Lại có
sáng kiến tích hợp bộ môn Lịch sử vào Giáo dục công dân. Nhưng giáo dục công
dân là cái gì mới được? Khái niệm công dân (Bürger/citizen) hình thành song
song với nhà nước tư sản đại nghị khai sáng tinh thần Tự do, Bình đẳng, Bác ái
của Cách mạng Pháp, hoàn thiện cho đến nay là nhà nước dân chủ - dân sự - pháp
quyền ở nhiều nước Tây Phương. Chưa bao giờ người Việt (trừ một giai đoạn nào đó thời Việt Nam Cộng
Hòa) được làm công dân. Dưới chính thể cộng sản độc tài toàn
trị, từng người Việt Nam chỉ là thần dân mà thôi.
Giáo án
môn Giáo dục công dân, xét từ hiện thực Việt Nam hôm nay, nếu có, nên bắt đầu bằng
tiền đề: Chúng tôi người Việt Nam thèm khát được là công dân, chưa bao giờ cha
ông tôi cũng như tôi được làm công dân cả.
Trái
ngược cam kết để gia nhập hiệp định TPP, chính quyền mấy ngày nay ráo riết ngăn
cản sự hình thành các tổ chức xã hội dân sự và công đoàn độc lập. Sự „ổn định
chính trị“ mà đảng cộng sản Việt Nam rêu rao và dùng công an quân đội duy trì
thực chất là tình trạng khống chế xung đột.
Đó là sự
bất ổn bên trong, thực sự khắc phục được chỉ có thể bằng cách trao lại nhân quyền
cho dân. Xác lập tư cách công dân về lâu dài mới tạo nền tảng thực sự cho một
chế độ khiến người dân yêu thượng và sẵn lòng bảo vệ.
Thế còn
bao giờ người dân Việt Nam gánh chịu cả sự bất ổn bên ngoài, khi nào người dân
Việt cũng vào đích ngắm của khủng bố quốc tế? Tình hình này có thể thay đổi rất
nhanh. Chính trị Việt Nam vốn được quyết sách bởi nhóm người vây quanh lãnh tụ,
lãnh đạo của nhà nước phong kiến - thần quyền kiểu mới từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn
Phú Trọng, cho tới hôm nay cũng chưa một ai có tư cách và ý thức công dân nốt.
Các vị ấy thuộc về một đảng tiếm quyền loại trừ phần lớn nhân dân ra khỏi tài sản,
quyền hành và luật pháp, và tự cho mình được đối xử theo luật pháp khác. Đứng đầu
một tập đoàn quyền lực, tham nhũng hôm nay chỉ là những kẻ độc tài bịt miệng
người dân dưới phương châm „đã có đảng và nhà nước lo“. Họ sẽ ra những quyết định
độc đoán không tham kiến công luận, không hỏi ý nhân dân.
Trong bối
cảnh theo đuổi một chính sách đu dây vô vọng „không liên minh với một nước chống
lại nước thứ ba“ nhà nước CHXHCN Việt Nam kiệt quệ muốn xin tiền viện trợ hay để
phá vỡ thế cô lập, tới đây rất có thể qua một đêm, sáng hôm sau gửi ngay quân đội
vào liên minh quốc tế tham chiến chống phiến quân IS.
Lúc đó
người Việt Nam sẽ tức khắc thành nạn nhân của khủng bố.
P.K.Đ.
Tác giả
gửi BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:52
No comments:
Post a Comment